Gỡ nút thắt “ngăn sông cấm chợ”
---
Có thể nói, Thành phố Hồ Chí Minh là nơi diễn ra nhiều cuộc “phá rào” đầy dấu ấn, khi mà sau năm 1975 thành phố hơn 4 triệu dân lâm vào cảnh thiếu đói, cơm độn bo bo, sắn lát thành bữa quen. Chính sách “ngăn sông cấm chợ”, "cải tạo tư sản" đã xóa sổ mạng lưới buôn bán lương thực, thay bằng các cửa hàng mậu dịch quốc doanh. Giá mua của Nhà nước thì quá thấp, nông dân miền tây có gạo nhưng không bán. Chính quyền có tiền cũng không được mua gạo theo giá thỏa thuận vì dễ bị quy vào tội đi ngược chủ trương bao cấp.
Một buổi sáng năm 1978, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (lúc đó) Võ Văn Kiệt mời ông Lữ Minh Châu, Giám đốc Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh, ông Năm Ẩn, Giám đốc Sở Tài chánh và bà Ba Thi, Phó Giám đốc Sở Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh, tới nhà riêng ăn sáng. Sau khi dùng bữa, Bí thư Thành ủy cho biết, dự trữ gạo của thành phố chỉ còn trong vài ngày. Đồng chí Võ Văn Kiệt đặt câu hỏi: “Tại sao chúng ta không ráp hai mối này lại?”.
Ông Lữ Minh Châu hồi tưởng: Kế hoạch là ngân hàng xuất tiền, văn phòng lo giấy tờ, còn bà Ba Thi dùng quan hệ quen biết để về miền Tây mua gạo, chở về bán cho dân Sài Gòn. Vì Sở Lương thực không thể đứng tên mua theo giá thị trường, một “tổ thu mua” đặc biệt được thành lập, gồm cán bộ ngân hàng, vận tải, kế toán…, bà Ba Thi làm tổ trưởng. Nhiều người đùa đây là “tổ buôn lậu gạo”.

Tổ xuống Cần Thơ mua lúa với giá 2,5 đồng/kg, cao gấp 5 lần giá thu mua của Nhà nước. Ban đầu dân còn e dè, nhưng sau đồng ý bán. Việc thu mua mở rộng khắp miền Tây, từ vài trăm tấn lên tới 10 nghìn đến 20 nghìn tấn/tháng. Tổ hoạt động ròng rã từ năm 1979 đến năm 1982, cho đến khi người dân thành phố vượt qua cơn thiếu đói mới tự giải tán.
Trong bối cảnh cơ chế bao cấp ngày càng lộ rõ sự trì trệ, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt chọn cách hành động, âm thầm tháo gỡ từng khúc mắc: Gỡ nút “ngăn sông cấm chợ”, bỏ cơ chế tem phiếu khắt khe, cho phép mua bán tư liệu sản xuất - điều cấm kỵ tuyệt đối vào thời điểm đó. Các xí nghiệp quốc doanh ở Sài Gòn lần đầu tiên được tự lo nguyên liệu, tự sản xuất, tự tiêu thụ sản phẩm mà không cần phải xin cấp trên “mở rào”.
Thương nhân, đặc biệt là người Hoa, được khuyến khích tham gia mua gom nông sản để trao đổi trực tiếp với Singapore, Hồng Công (Trung Quốc). Công thức “hàng đổi hàng” nhanh chóng được triển khai.
Nhiều chuyến hàng trót lọt, các nhà máy được tiếp sức. Chỉ sau một năm, kim ngạch xuất khẩu trực tiếp của Thành phố Hồ Chí Minh tăng vọt từ 500 nghìn USD (năm 1980) lên 22 triệu USD (năm 1981), một con số đủ để Trung ương phải nhìn lại.
Từ những thử nghiệm ấy, các chính sách “vượt rào” dần được tổng kết và thể chế hóa: Bãi bỏ chế độ thu mua nghĩa vụ với nông dân, xóa cơ chế hai giá, mở quyền tự chủ kinh doanh cho xí nghiệp nhà nước…

Điều hành con đường cải cách thận trọng nhưng hiệu quả
---
Ông Nguyễn Đức Vinh, nguyên cán bộ Nhà máy Dệt Nam Định, năm nay gần 90 tuổi, nhưng ký ức về một thời “nhà máy là nhịp tim của thành phố” vẫn chưa phai. Thời đỉnh cao, nhà máy có tới 18 nghìn công nhân. Mỗi kỳ phát lương là cả thành phố rộn ràng, mua bán tấp nập. Thế rồi năm 1979, nhà máy rơi vào khủng hoảng: Thiếu bông, thiếu điện, nguyên liệu khan hiếm, tinh thần công nhân tụt dốc. Trong bối cảnh ấy, Giám đốc Trần Trọng Quyến đưa ra một sáng kiến táo bạo mà sau này được gọi là “ba kế hoạch”.
Ông Vinh kể: “Kế hoạch 1 là phần giao cho Nhà nước, làm theo chỉ tiêu. Kế hoạch 2 thì nhà máy tự xoay xở nguyên vật liệu để sản xuất. Kế hoạch 3 là dùng cả phế thải để sản xuất hàng hóa đem bán thẳng ra thị trường. Nhờ đó, nhà máy không bị động chờ phân bổ từ trên, sản xuất tăng trở lại, đời sống công nhân được cải thiện rõ rệt”.
Trước đó, vào cuối những năm 1960, khi nông thôn miền bắc chìm trong trì trệ sau hợp tác hóa, Vĩnh Phúc (nay là Phú Thọ) trở thành điểm sáng khác biệt nhờ một quyết định táo bạo của Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc. Ông là người đầu tiên cho khoán ruộng về hộ, giao ruộng, giao chỉ tiêu sản lượng, phần vượt được giữ lại.
Chỉ sau hai vụ khoán, năng suất lúa tăng vọt. Nông dân lần đầu tiên có gạo dư, không còn cảnh đói giáp hạt, họ hăng hái ra đồng như thể ruộng là của nhà mình. Không khí làng quê đổi khác, sản xuất của hợp tác xã được hồi sinh.

Tuy nhiên, năm 1968, khoán hộ bị quy là trái với đường lối tập thể hóa, là “lệch hướng xã hội chủ nghĩa”. Ông Kim Ngọc bị yêu cầu kiểm điểm nghiêm khắc, phải thừa nhận sai lầm. Dù bị đình chỉ trên giấy, chủ trương khoán hộ vẫn âm thầm lan rộng. Ở Vĩnh Phúc và nhiều tỉnh khác, hợp tác xã tự tìm cách vận dụng. Nhưng chính mô hình tưởng chừng bị chặn đứng ấy lại trở thành tia sáng dẫn đường cho những người đi sau, trong đó có ông Đoàn Duy Thành, người "xé rào" quyết liệt ở Hải Phòng.
Cuối những năm 1970, kinh tế hợp tác xã ở Hải Phòng lâm vào bế tắc. Ông Đoàn Duy Thành, khi ấy là Chủ tịch UBND thành phố. Ông nhớ lại: “Tôi từng nhiều đêm day dứt khi thấy người nghèo xếp hàng xin ăn trước trụ sở Thành ủy, Ủy ban. Một lần xuống xã Hòa Nghĩa, tôi bắt gặp ba đứa trẻ nằm lả vì đói. Hỏi lãnh đạo xã thì chỉ nghe những lời đổ lỗi: Ruộng kém, dân lười. Cảnh đói như vậy nhưng trên đồng, người dân chỉ đứng nhìn nhau. Không ai buồn cầm cuốc. Làm cả ngày không đủ ba lạng lúa, họ biết làm mà đói tiếp thì làm để làm gì? Năng suất trì trệ, đói nghèo bủa vây. Không thay đổi thì chết”.
Nỗi trăn trở đưa ông tới một cuộc gặp với ông Kim Ngọc. Câu chuyện diễn ra chóng vánh, ông Kim Ngọc đưa ông Thành bản nghị quyết khoán cũ và chỉ nói: “Đọc ở đây thôi nhé!”. Trước khi chia tay, ông thốt lên như một lời gửi gắm: “Nông dân mình đói và khổ quá, Thành ơi!”.

Trở về Hải Phòng, ông Đoàn Duy Thành bắt tay vào thực hiện một mô hình khoán mới, bắt đầu từ Đồ Sơn... Sau đó, Nghị quyết số 24 khoán trong nông nghiệp ra đời. Theo đó, ruộng được khoán thẳng đến từng hộ, dân hồ hởi đón nhận và lao động hăng say trên “mảnh ruộng của mình”.
“Chúng tôi xác định: Bên cạnh vận động nội bộ, phải tranh thủ sự ủng hộ từ lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Tôi từng đến tận nhà Tổng Bí thư Lê Duẩn, báo cáo liền ba giờ về tình hình nông thôn và chủ trương khoán ở Hải Phòng. Anh Duẩn lắng nghe rất kỹ, rồi bảo: Cứ về làm đi, tôi sẽ về xem các đồng chí làm thế nào! Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng ngầm gật đầu. Riêng với Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh, tôi phải gặp đến vài ba lần. Tôi bố trí để anh đi thực tế cơ sở, cung cấp đầy đủ số liệu cụ thể về đời sống của dân và cán bộ. Sau cùng, khi hỏi lại, anh đã đồng tình với chủ trương khoán sản phẩm trong nông nghiệp”, ông Đoàn Duy Thành chia sẻ.
Theo nhà nghiên cứu Đặng Phong, trước đổi mới cả nước có gần 100 cuộc "phá rào" kinh tế, với khoảng 20 trường hợp tiêu biểu. Đây là con đường cải cách rất đặc thù của Việt Nam trong so sánh quốc tế. Không phải ai phá rào cũng bị kỷ luật. Một số người còn được đề bạt: Ông Đoàn Duy Thành từ Hải Phòng lên làm Phó Thủ tướng, ông Võ Văn Kiệt từ Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh trở thành Thủ tướng...
Các sáng kiến “phá rào” không chỉ là hành động đơn lẻ mà là phản ứng linh hoạt trước sự bế tắc của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp. Từ những thử nghiệm mang tính thực tiễn, Việt Nam đã từng bước định hình một con đường cải cách từ dưới lên, thận trọng nhưng hiệu quả, tạo nền móng cho công cuộc đổi mới và sự chuyển mình kinh tế sau này. Giai đoạn này để lại những bài học quý về tầm quan trọng của thích ứng, linh hoạt và lắng nghe thực tiễn.