Những quyết sách táo bạo, sự dũng cảm nhìn nhận thực tiễn và các sáng kiến “phá rào” từ cơ sở đã đưa Việt Nam từ một quốc gia nghèo đói trở thành nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hội nhập sâu rộng với thế giới.
***
Đổi mới toàn diện để cứu nguy đất nước
Bồi hồi cầm trên tay cuốn Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (Đại hội VI) do NXB Sự thật xuất bản tại Hà Nội năm 1987 đã nhuốm màu thời gian, tôi bâng khuâng nhớ về những bài học trong đổi mới tư duy, phát huy trí tuệ tập thể và khát vọng vươn lên... Tất cả vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục soi đường cho quốc gia phát triển bền vững trong bối cảnh mới.
Năm 1986, Việt Nam đối mặt khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm trọng: lạm phát phi mã, thiếu lương thực, sản xuất đình trệ, đời sống nhân dân rất khó khăn, quy mô nền kinh tế của Việt Nam (GDP) chỉ khoảng 8 tỷ USD, đứng thứ 9/10 trong ASEAN, chỉ xếp trên Myanmar, GDP bình quân đầu người khoảng 200-300 USD thuộc nhóm nghèo nhất thế giới... Đại hội VI của Đảng đã dũng cảm nhìn nhận sai lầm, chỉ rõ nguyên nhân và xác định phải đổi mới toàn diện để cứu nguy đất nước.
Dấu ấn lớn nhất chính là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế: chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, coi trọng sản xuất hàng hóa và các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Lần đầu tiên, Đại hội đã khẳng định sự tồn tại khách quan của kinh tế nhiều thành phần, mở đường cho kinh tế tư nhân, tập thể và đầu tư nước ngoài phát triển. Ba chương trình kinh tế lớn được xác định là phát triển lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu nhằm giải quyết cấp bách nhu cầu xã hội, tạo nền tảng phục hồi và phát triển kinh tế.

Trước khi chính thức bước lên “con tàu” đổi mới, nhiều địa phương và doanh nghiệp Nhà nước đã mạnh dạn “phá rào”, thí điểm mô hình mới để tháo gỡ khó khăn, tạo nền tảng cho đổi mới toàn diện. Từ đó Nghị quyết Khoán 100 (1981) và Khoán 10 (1988) được xây dựng đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Hay tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhiều sáng kiến đã giải phóng sức sản xuất và tư duy, đặt nền móng cho đổi mới, như cho phép thương nhân thu gom hàng hóa để xuất khẩu trực tiếp, mở cửa giao thương với nước ngoài, tạo động lực cho kinh tế miền nam phát triển năng động, góp phần thúc đẩy tư duy đổi mới trên toàn quốc.
Ngay sau Đại hội VI, Việt Nam lần đầu ban hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987) mở ra làn sóng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế, là bước ngoặt lớn về thể chế để Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới, nâng cao vị thế quốc tế, tạo chuyển biến lớn trong kinh tế-xã hội. Thành công của Đại hội VI gắn liền với vai trò lãnh đạo, quyết đoán và đổi mới tư duy của nhiều cá nhân xuất sắc, tiêu biểu là Tổng Bí thư Trường Chinh - người khởi xướng, đề xuất và kiên trì thúc đẩy đường lối đổi mới.
Bên cạnh đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Võ Văn Kiệt (sau này là Thủ tướng Chính phủ); Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Linh (sau này là Tổng Bí thư) cùng nhiều đồng chí lãnh đạo khác đã đóng góp quan trọng trong hoạch định, tổ chức thực hiện và hoàn thiện đường lối đổi mới.

Từ Đại hội VII đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã liên tục phát triển, hoàn thiện và đẩy mạnh công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực, với trọng tâm là phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, phát huy dân chủ và đại đoàn kết toàn dân tộc, từng bước nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Tại Đại hội VII, lần đầu tiên Đảng ta thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định rõ mục tiêu phát triển đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được Đại hội IX xác định, đề cao vai trò của đổi mới sáng tạo, hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển giáo dục, khoa học công nghệ, tăng cường quốc phòng, an ninh. Đại hội X đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đại hội XI đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội XII tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, khẳng định đổi mới là yêu cầu bức thiết, có ý nghĩa sống còn; nhấn mạnh vai trò của phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đại hội XIII đã khơi dậy khát vọng phát triển, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ với mục tiêu đến giữa thế kỷ 21, Việt Nam trở thành nước phát triển, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khởi tạo động lực từ công cuộc đổi mới “phiên bản 2”
Năm 2025, quy mô GDP của Việt Nam được dự báo sẽ đạt hơn 500 tỷ USD, xếp thứ 30 đến 33 trong bảng xếp hạng các nền kinh tế lớn nhất thế giới, và là nền kinh tế lớn thứ 12 tại châu Á, thứ 4 hoặc 5 trong ASEAN, với bình quân đầu người vượt mốc 5.000 USD. Thực tế vẫn còn nhiều thách thức ở phía trước, cho nên tiếp tục đổi mới không chỉ là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, mà còn là cơ sở, nền tảng và động lực quyết định mở ra kỷ nguyên phát triển mới, đánh dấu sự vươn mình mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trong thời hiện đại.
Đây được xem là công cuộc đổi mới “phiên bản 2” - phiên bản nâng cao khi Đảng ta quyết định khởi động hàng loạt quyết sách mạnh mẽ như cuộc cách mạng về thể chế, tinh giản bộ máy, sắp xếp lại đơn vị hành chính lãnh thổ, cùng việc ban hành “bộ tứ trụ cột” nghị quyết hướng tới bước chuyển mình sâu rộng, vươn lên mạnh mẽ của Việt Nam.

Đổi mới là một quá trình liên tục, kiên trì, sáng tạo và luôn được cập nhật để thích ứng với thực tiễn. Đổi mới quản trị quốc gia sẽ nâng cao hiệu lực, hiệu quả bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ, đoàn kết và trí tuệ tập thể trong xây dựng, phát triển đất nước. Đổi mới tư duy, thể chế, công nghệ, sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển xanh đang là nền tảng để Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển bền vững, hiện đại hóa, công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng trên nền tảng đa dạng hóa nguồn lực, phát triển kinh tế tri thức, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Với những gì đang diễn ra, có thể nói công cuộc đổi mới “phiên bản 2” là làn sóng cải cách toàn diện, sâu sắc và đồng bộ về thể chế, quản trị quốc gia, cơ cấu tổ chức bộ máy và mô hình phát triển đất nước.
Đặc biệt, đây là cuộc cách mạng về tư duy phát triển, chuyển từ bị động ứng phó sang chủ động kiến tạo, từ “cởi trói” sang “dẫn dắt” và thiết kế tương lai là bước chuyển tiếp lịch sử, tiếp nối thành tựu đổi mới năm 1986, mở ra không gian phát triển mới, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Đồng thời hướng đến một nhà nước kiến tạo, vận hành bằng dữ liệu, công nghệ, minh bạch, linh hoạt để phục vụ người dân, doanh nghiệp với chất lượng cao nhất.
Làm cách mạng xã hội chủ nghĩa nói cho cùng là lo thỏa mãn nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân; lo việc ăn, mặc, ở, học hành, đi lại, chữa bệnh, nghỉ ngơi, giải trí cho mọi người trong xã hội. Trách nhiệm đó trước hết là trách nhiệm của người đảng viên, của người lãnh đạo.
Những câu chuyện về quyết sách đột phá, tinh thần sáng tạo và ý chí vượt khó vươn lên trong đổi mới luôn là nguồn cảm hứng mạnh mẽ, tiếp thêm niềm tin và động lực cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Chẳng thế mà trong cuốn Luôn luôn làm trọn nghĩa vụ với Đảng, với Dân (NXB Sự thật, Hà Nội, 1978, trang 17), Tổng Bí thư Lê Duẩn đã chỉ rõ “Làm cách mạng xã hội chủ nghĩa nói cho cùng là lo thỏa mãn nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân; lo việc ăn, mặc, ở, học hành, đi lại, chữa bệnh, nghỉ ngơi, giải trí cho mọi người trong xã hội. Trách nhiệm đó trước hết là trách nhiệm của người đảng viên, của người lãnh đạo”, đến bây giờ vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử.