Hơn một thế kỷ qua, đờn ca tài tử vẫn là món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Nam Bộ. Nhằm phát huy giá trị của di sản văn hóa phi vật thể độc đáo này trong cuộc sống đương đại, thành phố đã mở rộng không gian biểu diễn ở nhiều nơi trên địa bàn. Khán giả dần quen thuộc với hoạt động “Trên bến dưới thuyền” ở bến Bình Đông - địa danh gắn liền với lịch sử và văn hóa sông nước miền nam, nhất là đô thị sông nước Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là nơi chứng kiến bao thăng trầm trong quá trình phát triển của thành phố, mang trong mình những câu chuyện về truyền thống và sự giao thoa giữa các nền văn hóa. Bến Bình Đông được ví như một “không gian di sản” với các dãy nhà đậm nét kiến trúc cổ xưa. Vì thế, vào dịp Tết hay các lễ hội, không gian nơi đây trở thành điểm sinh hoạt thú vị của đờn ca tài tử.
Nghệ nhân Nhân dân Thanh Tuyết cho biết, được biểu diễn tại không gian “Trên bến dưới thuyền” khiến các tài tử cảm thấy thích thú. Những chiếc ghe di chuyển trên dòng kênh mang theo tiếng đờn, ca trong trẻo đã tạo nên một không gian nghệ thuật đặc biệt, gần gũi với người dân hơn.
Trong chuỗi sự kiện “Những ngày văn học, nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh” vừa qua, nghệ thuật đờn ca tài tử được biểu diễn vào mỗi buổi chiều tại Nhà Văn hóa Thanh niên cũng thu hút khá đông bạn trẻ đến xem. Bạn Nguyễn Hoàng Anh Thư, Trường đại học Hùng Vương cho biết: “Tôi ấn tượng với màn biểu diễn của các nghệ nhân. Chúng tôi còn được nghe chuyên gia giới thiệu về quá trình hình thành, nét độc đáo của nghệ thuật đờn ca tài tử cho nên hiểu hơn vẻ đẹp của di sản văn hóa phi vật thể này”.
Theo Tiến sĩ Mai Mỹ Duyên, người có nhiều năm nghiên cứu về đờn ca tài tử, nghệ thuật truyền thống “đặc sản” của phương Nam này có nhiều dạng thức sinh hoạt - đây cũng là nét độc đáo so với nhiều loại hình nghệ thuật cổ truyền khác. Người dân có thể chơi nhạc tài tử ở trên xuồng, ghe hay trên cạn, có thể biểu diễn ở trên sân khấu hay trong các lễ hội, đám tiệc. Chính sự thích nghi khiến đờn ca tài tử dễ tiếp cận được công chúng từ xưa đến nay.
Chuỗi sự kiện “Những ngày văn học, nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh” vừa qua còn đưa nghệ thuật cải lương, hát bội đến với nhiều bạn trẻ. Trong sự phát triển đi lên không ngừng của nghệ thuật thành phố, hát bội vẫn luôn bền bỉ, sáng tạo và cống hiến thông qua tiếng trống, làn điệu, động tác biểu trưng; thể hiện tinh thần trung hiếu, tiết nghĩa và lòng tự tôn dân tộc.
Nhiều bạn trẻ như bị cuốn theo khi được thưởng thức “Nghi thức nghinh sắc-Xây chầu Đại bội”, một “bức tranh” nghệ thuật tái dựng nghi thức linh thiêng mở đầu như lời chào tổ tiên, thể hiện sự tôn kính với tổ nghề và mời gọi thần linh chứng giám cuộc trình diễn hát bội. Cùng với đó, các tiết mục “Lễ hội đình làng”, trích đoạn “Tạ Ôn Đình chém Khương Linh Tá” trong vở “San hậu”, trích đoạn lịch sử “Tả quân Lê Văn Duyệt”, tiết mục “Ngọn lửa hồn Việt” đã mang lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng khán giả trẻ và nước ngoài.
Ngoài ra, lớp trẻ cũng được tìm hiểu môn nghệ thuật cải lương qua chương trình “Giao lưu với nghệ sĩ và giới thiệu các nhân vật kinh điển của nghệ thuật cải lương”. Chương trình là cầu nối để khán giả hôm nay hiểu rõ hơn về sự nghiệp, những tác phẩm nổi tiếng của cố soạn giả Trần Hữu Trang, người nghệ sĩ tài hoa đã có nhiều đóng góp và để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử sân khấu cải lương Việt Nam. Ông sinh năm 1906 tại xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo cũ (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, chứng kiến nỗi thống khổ của người dân trong cảnh “một cổ hai tròng”, lòng ông canh cánh niềm đau. Từ một anh thợ hớt tóc, một thư ký chép tuồng, bằng đam mê và tài năng nghệ thuật, ông đã bắt đầu sáng tác, mượn nghệ thuật để nói nên thân phận con người, phản ánh thực trạng xã hội lúc bấy giờ. Những trích đoạn trong các tác phẩm tiêu biểu của soạn giả Trần Hữu Trang như “Mộng hoa vương”, “Đời cô Lựu” đã mang lại nhiều cảm xúc cho người xem.
Việc đưa đờn ca tài tử, cải lương, hát bội ra không gian mở tại trung tâm thành phố đã giúp giới trẻ tiếp cận được các loại hình nghệ thuật độc đáo của dân tộc. Điều này mang ý nghĩa tri ân, tiếp nối truyền thống, thể hiện lòng biết ơn của thế hệ hôm nay đối với bậc tiền nhân; đồng thời khơi dậy niềm tự hào, ý thức gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong đời sống đương đại