Sản phẩm gắn nhãn sinh thái có ý nghĩa quan trọng trong thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững.
Sản phẩm gắn nhãn sinh thái có ý nghĩa quan trọng trong thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững.

“Hộ chiếu xanh” giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường

Nhãn sinh thái là “hộ chiếu xanh” giúp doanh nghiệp khẳng định trách nhiệm với môi trường, mở rộng thị trường, tạo niềm tin và mang lại cơ sở lựa chọn an toàn, chất lượng cho người tiêu dùng, đây cũng là chìa khóa để hướng tới phát triển bền vững.

Nhãn sinh thái (hay nhãn xanh, nhãn môi trường) là nhãn chỉ ra tính ưu việt về mặt môi trường của một sản phẩm, dịch vụ so với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại dựa trên đánh giá vòng đời sản phẩm. Đây là hình thức gắn nhãn tự nguyện, đã được nhiều quốc gia áp dụng rộng rãi. Trong bối cảnh hiện nay, nhãn sinh thái được coi là “hộ chiếu xanh” giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, tiếp cận nhóm khách hàng có trách nhiệm, đồng thời mang lại cho người tiêu dùng sự lựa chọn an toàn và chất lượng.

Với định hướng phát triển sản phẩm xanh, thân thiện môi trường, Công ty cổ phần Stavian đã áp dụng quy trình kiểm soát chặt chẽ từ nguyên liệu, công nghệ, thiết kế đến phân phối để đạt tiêu chuẩn nhãn sinh thái. Tiêu biểu là sản phẩm túi cuộn thực phẩm Stahaus Bio làm từ nguyên liệu an toàn, có khả năng phân hủy sinh học hoặc tái chế, được kiểm nghiệm kỹ lưỡng trước khi ra thị trường.

Ông Nguyễn Hoàng Đông, Tổng Giám đốc Stavian cho biết, ban đầu công ty khá thận trọng vì giá bán cao hơn sản phẩm truyền thống, lo ngại phản ứng từ thị trường. Tuy nhiên, nhờ sự ủng hộ của người tiêu dùng và xu hướng tiêu dùng xanh ngày càng lan tỏa, sản phẩm đã được đón nhận, có mặt tại hầu hết siêu thị, đại lý và các sàn thương mại điện tử.

“Đây là tín hiệu tích cực cho thấy người Việt sẵn sàng ủng hộ sản phẩm bảo vệ môi trường”, ông Đông chia sẻ.

Nhãn xanh, nhãn sinh thái là công cụ chính sách môi trường quan trọng, được nhiều quốc gia áp dụng thành công như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan hay các nước châu Âu. Công cụ này giúp doanh nghiệp chuyển đổi từ sản phẩm gây ô nhiễm sang sản phẩm xanh, đồng thời hỗ trợ người tiêu dùng tiếp cận hàng hóa thân thiện, bảo vệ sức khỏe.

Ông Nguyễn Lê Thăng Long, Chủ tịch Hội đồng quản trị An Phát Xanh dẫn chứng, châu Âu mất hơn 15 năm để thay thế túi ni-lông, nhưng sự kiên trì đã giúp thị trường định hình rõ ràng về sản phẩm gắn nhãn sinh thái. Tại Việt Nam, công ty phát triển sản phẩm AnEco từ năm 2018 và xuất khẩu sang châu Âu. Năm 2019, An Phát Xanh hợp tác với Tập đoàn SK (Hàn Quốc) xây nhà máy tại Hải Phòng để làm chủ công nghệ và tăng năng lực cung ứng. Sau nhiều năm phát triển, ông nhận thấy các tập đoàn lớn ủng hộ sản phẩm sinh thái vì không ảnh hưởng nhiều đến giá thành và giúp họ xây dựng thương hiệu bền vững.

Theo ông, việc truyền thông sẽ thuyết phục hơn nếu cho người tiêu dùng thấy rằng túi phân rã không gây hại cho môi trường như túi ni-lông và không làm hạt vi nhựa dính vào thực phẩm gây ảnh hưởng sức khỏe người tiêu dùng.

Việt Nam đã có khung chính sách khá đầy đủ về nhãn sinh thái, Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã hợp nhất quy định về nhãn sinh thái, bổ sung ưu đãi cho sản phẩm xanh; các dự án đầu tư công khi mời thầu sẽ ưu tiên sản phẩm thân thiện môi trường. Đáng chú ý, nhận thức tiêu dùng cũng thay đổi khi 86% số người Việt sẵn sàng chi trả cao hơn cho sản phẩm thân thiện môi trường, 62% quyết định mua do bị tác động bởi cam kết xanh của doanh nghiệp, đây được coi là bước tiến kỳ vọng thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ hơn vào sản xuất xanh, bền vững.

Tuy vậy, kết quả áp dụng nhãn sinh thái vẫn còn hạn chế, nhiều vướng mắc cần tiếp tục tháo gỡ.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thế Chinh, nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu, việc chuyển đổi từ sản phẩm chưa có nhãn sang sản phẩm được dán nhãn là cả một quá trình dài và tốn kém. Ông lấy thí dụ, một sản phẩm son làm từ hoa hồng được dán nhãn sinh thái của châu Âu có giá thành cao gấp nhiều lần so với sản phẩm không có nhãn. Để đạt được điều này, doanh nghiệp phải đầu tư toàn diện, từ nguồn nguyên liệu, tiêu chí sản xuất, công nghệ, quy trình đến nâng cao nhận thức của người tiêu dùng.

Hay như sản phẩm màn hình máy tính của Nhật Bản, ngoài chứng nhận ISO 9.000 bảo đảm chất lượng sản phẩm, còn có ISO 14.000 gắn với nhãn sinh thái - vừa bảo đảm chất lượng, vừa an toàn cho người dùng. Nhưng để nâng từ ISO 9.000 lên ISO 14.000, doanh nghiệp phải chi phí đầu tư rất lớn cho công nghệ.

Ông Chinh cho rằng, doanh nghiệp cần có khả năng đáp ứng các tiêu chí, quy định mà nhãn sinh thái đặt ra, bởi họ là chủ thể chính trong việc thực hiện nhãn sinh thái. Ngoài ra, cần có định hướng trong việc quảng bá, xây dựng hình ảnh sản phẩm để thu hút người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm dán nhãn sinh thái. Cần xây dựng chính sách, cơ chế rõ ràng giúp doanh nghiệp hiểu, nắm vững và thật sự có khả năng áp dụng nhãn sinh thái.

Nhiều chuyên gia cho rằng, Nhà nước cần tập trung hoàn thiện thể chế, tạo ra một “sân chơi” và hình thành thị trường đủ hấp dẫn cho các sản phẩm gắn nhãn sinh thái. Phải xây dựng các nhóm tiêu chí phù hợp cho từng ngành hàng, gắn với lộ trình chuyển đổi xanh và nhu cầu của người tiêu dùng trong nước, để doanh nghiệp dễ áp dụng, còn người mua dễ nhận biết.

Thực tế cho thấy, muốn hình thành thị trường sản phẩm nhãn sinh thái đủ mạnh, ngoài chính sách ưu đãi về thuế, phí, cần chú trọng nhiều yếu tố then chốt như: Vốn tín dụng xanh, xúc tiến thương mại và truyền thông cộng đồng. Một số doanh nghiệp cho rằng, doanh nghiệp cần được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi để đầu tư công nghệ sạch; hỗ trợ quảng bá sản phẩm ở cả thị trường trong nước và quốc tế; sớm hạn chế sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa dùng một lần trên toàn quốc để khuyến khích lối sống xanh; minh bạch quy trình công nhận nhãn sinh thái, ưu đãi thuế và hỗ trợ chi phí cho doanh nghiệp.

Cùng với đó, cần đẩy mạnh truyền thông để doanh nghiệp và người tiêu dùng, nhất là giới trẻ, hiểu rõ lợi ích của sản phẩm xanh trong việc giảm hóa chất độc hại và bảo vệ môi trường.

Xem thêm