Phụ nữ H’Mông xã Hang Kia gìn giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống.
Phụ nữ H’Mông xã Hang Kia gìn giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống.

Giữ gìn và phát huy làng nghề truyền thống

Sau khi sáp nhập, tỉnh Phú Thọ có hơn 110 làng nghề đã được công nhận, doanh thu mỗi năm đạt hàng nghìn tỷ đồng, tạo việc làm cho hàng chục nghìn lao động.

Các làng nghề thủ công mỹ nghệ, đến dệt thổ cẩm, rèn, gốm… đã góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc, vừa phát triển kinh tế nông thôn gắn với du lịch đã mở ra một bức tranh mới tại nhiều vùng quê trên địa bàn tỉnh hôm nay.

Từ bao đời nay, đồng bào dân tộc H’Mông ở hai xã Hang Kia và Pà Cò (huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình cũ) luôn gìn giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống. Hình ảnh người phụ nữ H’Mông miệt mài bên khung cửi dệt ra nét hoa văn trên những tấm thổ cẩm đã trở thành nét văn hóa độc đáo của người dân nơi đây.

Trước đây, vải thổ cẩm của đồng bào dân tộc H’Mông ở Hang Kia, Pà Cò chủ yếu dùng để may trang phục trong đời sống, sinh hoạt thường ngày. Ngày nay, nhiều sản phẩm đã trở thành hàng hóa phục vụ khách du lịch. Đáng chú ý, từ năm 2015, đồng bào dân tộc H’Mông ở hai xã đã xây dựng làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống, hiện vẫn duy trì hoạt động của hàng trăm khung dệt.

Nhiều người đầu tư hàng chục máy may công nghiệp để sản xuất các mặt hàng từ vải thổ cẩm. Tại làng nón Sai Nga (Cẩm Khê), bên hiên những ngôi nhà mái ngói, từng đôi tay thoăn thoắt khâu lá, vót nan. Tiếng kéo cắt, tiếng kim chạm vành nón hòa cùng mùi tre nứa mới tước, tạo nên nhịp điệu quen thuộc của làng nghề gần 80 năm tuổi.

Nghề làm nón đến với Sai Nga từ thời tản cư, theo chân những người dân làng Chuông (thành phố Hà Nội) và bén rễ trên mảnh đất này, nuôi sống bao thế hệ. Giờ đây, khoảng 500 hộ vẫn gắn bó, mỗi năm làm ra chừng 550.000 chiếc nón, mang lại hàng chục tỷ đồng. Nón lá Sai Nga được công nhận là làng nghề từ năm 2004, đạt OCOP 3 sao năm 2021 và được nâng hạng 4 sao vào năm 2024…

Theo Chi cục Phát triển nông thôn (Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Phú Thọ), toàn tỉnh có hơn 110 làng nghề và hàng trăm “làng có nghề” đang hoạt động, thu hút hơn 30.000 hộ cùng hàng chục hợp tác xã, doanh nghiệp, tạo việc làm cho khoảng 43.000 lao động. Thu nhập bình quân dao động từ 6 đến 7 triệu đồng/người/tháng ở các làng nghề nhỏ, sản xuất theo mùa vụ, đến hàng chục triệu đồng ở những nơi có thị trường ổn định, sản phẩm xuất khẩu.

Tuy nhiên, lớp thợ trẻ ngày một thưa vắng. Nhiều làng nghề còn đối diện khó khăn về vốn, thiết bị lạc hậu, sản xuất manh mún, phụ thuộc thương lái, thiếu kênh tiêu thụ ổn định. Giá nguyên liệu tăng, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường… càng khiến việc giữ nghề thêm phần chật vật. “Sự chuyển dịch lao động sang khu công nghiệp, cộng với thay đổi thói quen sử dụng nón lá, khiến người trẻ không còn mặn mà theo nghề”, ông Nguyễn Hữu Chí, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Cẩm Khê chia sẻ.

Theo ông Nguyễn Thanh Hiệp, Phó Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn, nếu chỉ trông vào thói quen tiêu dùng truyền thống thì làng nghề sẽ khó trụ vững. Vì thế, con đường để vừa giữ được hồn nghề, vừa đứng vững trước thị trường là mạnh dạn ứng dụng công nghệ, chuẩn hóa quy trình sản xuất, mở rộng thị trường qua du lịch và thương mại điện tử. Mục tiêu Phú Thọ đặt ra đến năm 2030, nhóm ngành nghề nông thôn phấn đấu tăng trưởng 6-7%/năm, thu nhập bình quân lao động tăng hơn 2,5 lần so với năm 2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt từ 80% trở lên, trong đó ít nhất 35% có bằng hoặc chứng chỉ nghề.

Đến năm 2045, ngành nghề nông thôn sẽ trở thành trụ cột kinh tế bền vững, thông minh, thân thiện với môi trường, gắn với không gian nông thôn xanh-sạch-đẹp và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Theo lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Phú Thọ, để đạt những mục tiêu nêu trên, ba “mũi nhọn” đã được xác định rõ: Đào tạo và giữ chân thế hệ trẻ, đổi mới công nghệ và xây dựng thương hiệu mạnh. Ở nhiều nơi, mô hình “lớp học nghề tại nhà” đã hình thành, giúp thanh niên vừa học bài bản từ nghệ nhân, vừa có thu nhập ngay trên quê hương.

Cùng với đó, nguồn vốn khuyến công trở thành cú huých để các cơ sở làng nghề thay thế máy móc cũ, tăng năng suất, cải thiện chất lượng sản phẩm. Sản phẩm giờ không chỉ dừng ở chợ quê mà được gắn tem truy xuất nguồn gốc, tham gia chương trình OCOP, hiện diện ở hội chợ, siêu thị và trên các sàn thương mại điện tử. Một hướng mở đầy triển vọng là kết hợp làng nghề với du lịch trải nghiệm. Du khách có thể tận tay nhuộm vải, nặn gốm, khâu lá nón, rồi mang về một món quà tự làm - một “độc bản” mang câu chuyện của chính họ. Nơi nào làm tốt, như một số làng nghề dệt, rèn hay chế tác gỗ mỹ nghệ, lượng khách tăng đều mỗi năm, kéo theo cả dịch vụ lưu trú, ẩm thực địa phương cùng phát triển.

Bài toán giữ nghề-mở lối đã có phương án: Đổi mới để sản phẩm bước ra thị trường với sức cạnh tranh mới, nhưng vẫn giữ trọn câu chuyện và hồn cốt cũ. Để mỗi sản phẩm khi rời tay người thợ không chỉ mang giá trị vật chất, mà còn là ký ức xưa, một phần bản sắc vùng đất cội nguồn.

Xem thêm