Đã nhiều năm nay, chị Nông Thị Xoa, thôn Bản Đính, xã Nghiên Loan đã gắn bó và thành thạo việc chuẩn bị thức ăn, vệ sinh chuồng trại chăn nuôi. Chị Xoa cho biết, lúc đầu trang trại cũng chỉ nuôi vài chục con, sau này nhận thấy nhu cầu thị trường và lợi nhuận từ nuôi trâu, bò khá tốt cho nên mở rộng quy mô, đến năm 2024 thì mở thêm chuồng, bây giờ ở đây có 169 con. Gia đình chị Xoa còn mạnh dạn thành lập Hợp tác xã Giàng Tiến chuyên về chăn nuôi.
Ngoài khu chuồng nuôi, Hợp tác xã Giàng Tiến đã phát triển thêm nhiều khu vực nuôi trâu, bò ở vùng lân cận. Đến nay, đơn vị có 10 thành viên, số lượng trâu, bò gần 400 con. Các hộ tham gia hợp tác xã liên kết từ quá trình nuôi đến thị trường tiêu thụ. Hợp tác xã tự trồng được hơn 10 ha cỏ voi, còn lại mua của người dân trong xã. Mô hình nuôi trâu, bò của Hợp tác xã Giàng Tiến đã giúp nhiều hộ xã viên vươn lên thoát nghèo.
Ở Bản Đính và vùng lân cận, nhiều hộ đã đầu tư chuồng trại nuôi trâu, bò vỗ béo, liên kết với hợp tác xã để tìm thị trường tiêu thụ. Mô hình nuôi trâu, bò vỗ béo dần được nhân rộng. Hiện ở Nghiên Loan đã có hàng trăm hộ tham gia, trở thành một nghề mang lại thu nhập khá cho người dân địa phương. Theo Phó Chủ tịch UBND xã Nghiên Loan Phạm Minh Tuân, đất sản xuất, trồng trọt của xã không lớn, do vậy phát triển chăn nuôi phù hợp đặc thù địa phương.
Từ đó, người dân trong xã tập trung chăn nuôi đại gia súc, có hợp tác xã, tổ hợp tác tham gia. Trên diện tích ruộng gần 2.000 m2, bà Ma Thị Hạt, xã Phong Quang, trước đây chỉ chuyên canh trồng hai vụ lúa. Từ năm 2023, bà Hạt chuyển từ trồng lúa sang trồng dưa chuột liên kết với hợp tác xã trên địa bàn. Cây dưa chuột phát triển nhanh, chỉ sau hơn một tháng đã cho thu hoạch, mỗi năm canh tác được bốn vụ.
Theo bà Hạt, liên kết với hợp tác xã, gia đình được hỗ trợ giống, kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm, mỗi vụ dưa thu về từ 15-20 triệu đồng/1.000 m2. Dựa vào lợi thế của địa phương, xã Tràng Xá đã hình thành được vùng trồng bưởi với diện tích hơn 280 ha, vùng trồng na diện tích khoảng 120 ha, cây thanh long hơn 10 ha, diện tích chè được duy trì ổn định với sản lượng chè hằng năm đạt hơn 7.800 tấn. Trên địa bàn xã đã thành lập được năm hợp tác xã với hơn 50 xã viên, 6 làng nghề và 3 sản phẩm OCOP.
Theo Phó Chủ tịch UBND xã Dương Thị Hương, giai đoạn 2025-2030, xã phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều đến năm 2030 giảm xuống dưới 1%. Để đạt được mục tiêu này, chính quyền địa phương tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; lồng ghép có hiệu quả với các chương trình mục tiêu quốc gia khác.
Trong đó, chú trọng phát huy thế mạnh về phát triển nông, lâm nghiệp, tạo các mô hình sinh kế bền vững, tập trung hỗ trợ đối với đối tượng nghèo thuộc nhóm dễ bị tổn thương, dân tộc thiểu số, người khuyết tật, phụ nữ, trẻ em. Thái Nguyên hiện đang triển khai hàng trăm dự án hỗ trợ sinh kế cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo. Trong đó, nhiều địa phương đã lựa chọn hướng đi phù hợp với điều kiện tự nhiên, lợi thế kinh tế và nhu cầu thị trường, như: Nuôi trâu, bò, dê sinh sản; phát triển trồng cây dược liệu dưới tán rừng, chăn nuôi gia cầm; Nuôi cá lồng, cá nước lạnh, phát triển sản phẩm OCOP gắn với du lịch cộng đồng; đa dạng cơ cấu cây trồng vụ đông...
Trong các dự án này, việc sản xuất, nuôi con gì, trồng cây gì do địa phương xác định dựa trên điều kiện tình hình thực tế để lập kế hoạch. Các mô hình được triển khai theo hướng bền vững, hạn chế cho không, mà chú trọng tăng sinh kế, giúp người dân được trang bị những kiến thức về chăn nuôi, trồng trọt, kinh doanh, nhất là hỗ trợ vốn để người dân có điều kiện đầu tư sản xuất. Đáng chú ý tỉnh đặc biệt chú trọng tới việc trao “cần câu” thay vì “con cá” thông qua phát huy hiệu quả vốn tín dụng chính sách dành cho hộ nghèo, cận nghèo.
Ông Lường Đình Tâm, xã Chợ Mới cho biết, cách đây 5 năm được sự tư vấn của cán bộ ngân hàng chính sách xã hội, tôi mạnh dạn vay vốn 50 triệu đồng để trồng rừng. Vốn vay từ ngân hàng thời hạn dài, lãi suất thấp và không phải thế chấp tài sản. Sau khi khai thác, trả hết vay ngân hàng, gia đình ông vẫn còn khoản thu nhập khá lớn. Theo Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội chi nhánh tỉnh Thái Nguyên Phạm Tuấn Hưng, đến hết tháng 9/2025, tổng nguồn vốn thực hiện trên địa bàn đạt hơn 9.111 tỷ đồng, tăng hơn 505 tỷ đồng so với cuối năm 2024.
Hiện tại, số hộ còn dư nợ là 125.047 hộ với dư nợ bình quân đạt hơn 72 triệu đồng/hộ. Dư nợ bình quân của các phòng giao dịch đạt hơn 535 tỷ đồng; dư nợ bình quân mỗi xã đạt hơn 98 tỷ đồng; dư nợ bình quân mỗi tổ tiết kiệm và vay vốn đạt hơn 2,3 tỷ đồng. Đến ngày 30/9/2025, chi nhánh đã cho vay đối với hơn 20.860 hộ nghèo; hơn 12.800 hộ cận nghèo và hơn 10.100 hộ mới thoát nghèo. Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, tại Thái Nguyên, ngân sách Trung ương và địa phương đã đầu tư hơn 1.167 tỷ đồng cho các địa phương.
Từ nguồn lực này, các đơn vị, địa phương đã xây dựng 55 công trình kết cấu hạ tầng, giúp 13.000 hộ hưởng lợi, trong đó có hơn 8.300 hộ nghèo. Tổng cộng đã có 391 dự án sinh kế được triển khai, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho hơn 8.800 hộ, trong đó hơn một nửa là hộ nghèo và cận nghèo. Việc lồng ghép nguồn lực, triển khai nhiều giải pháp đã giúp tỉnh đưa tỷ lệ hộ nghèo đa chiều từ 10,29% xuống còn 5,46% vào cuối năm 2024.
Trong đó, riêng khu vực đồng bào dân tộc thiểu số giảm gần 8,7%. Theo đại diện lãnh đạo UBND tỉnh, thời gian tới, Thái Nguyên sẽ thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo. Trong đó, chú trọng hoàn thiện kết cấu hạ tầng trên địa bàn các xã nghèo, khó khăn, làm nền tảng thúc đẩy phát triển kinh tế. Đồng thời tỉnh cũng chú trọng nhân rộng các mô hình giảm nghèo, coi đây là phương châm cốt lõi phát triển các mô hình liên kết sản xuất giữa hộ nghèo, cận nghèo với doanh nghiệp thông qua các tổ hợp tác và hợp tác xã.
Thái Nguyên phấn đấu đến cuối năm 2025 sẽ giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 4,65%. Từ năm 2026 đến năm 2030, tỉnh sẽ giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 1-1,5%; giảm ít nhất 3% hộ nghèo tại các xã khó khăn và 3-4% hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số.