Cá thể chim hồng hoàng được nuôi dưỡng, chăm sóc tại Vườn quốc gia Cát Tiên.
Cá thể chim hồng hoàng được nuôi dưỡng, chăm sóc tại Vườn quốc gia Cát Tiên.

Chặn đứng chuỗi xâm hại động vật hoang dã

Trong nỗ lực giữ gìn hệ sinh thái rừng nguyên sinh đặc trưng tại vùng Đông Nam Bộ, các cơ quan chức năng đang triển khai hàng loạt giải pháp mạnh mẽ nhằm ngăn chặn hành vi săn bắt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật hoang dã.

Vườn quốc gia Cát Tiên, một trong những khu vực có mức độ đa dạng sinh học cao nhất cả nước đang là tâm điểm của nhiều chiến dịch bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, với quyết tâm triệt phá tận gốc các chuỗi vi phạm để bảo tồn bền vững giá trị sinh học quý hiếm của rừng.

QUYẾT LIỆT NGĂN CHẶN KHAI THÁC TRÁI PHÉP

Theo thống kê của Ban Quản lý Vườn quốc gia Cát Tiên, trong gần 10 năm qua, tại khu vực này đã phát hiện hơn 1.100 vụ vi phạm liên quan đến săn bắt, đặt bẫy, buôn bán động vật rừng trái phép. Lực lượng chức năng đã xử lý gần 1.400 đối tượng, riêng từ đầu năm 2025 đến nay đã phát hiện 31 vụ với 38 đối tượng bị xử lý. Những con số trên phản ánh mức độ nhức nhối của vấn nạn này, đồng thời cho thấy áp lực đè nặng lên đội ngũ kiểm lâm và cán bộ bảo tồn rừng. “Chúng tôi xác định muốn bảo vệ rừng bền vững phải tấn công toàn diện vào các chuỗi xâm hại, từ khâu săn bắt đến tiêu thụ; nếu chỉ dừng ở xử lý người trực tiếp vào rừng đặt bẫy thì mới chỉ là xử lý phần ngọn”, Giám đốc Vườn quốc gia Cát Tiên Phạm Xuân Thịnh chia sẻ.

Với diện tích rừng hơn 82.600 ha nhưng chỉ có hơn 100 kiểm lâm, mô hình phối hợp với cộng đồng dân cư tham gia tuần tra, giám sát đang được triển khai rộng rãi. Sự tham gia của người dân bản địa không chỉ giúp phát hiện sớm các hành vi vi phạm mà còn lan tỏa tinh thần bảo vệ rừng sâu rộng trong cộng đồng.

Mặc dù hành lang pháp lý ngày càng hoàn thiện, chế tài xử phạt tăng nặng nhưng tình trạng xâm hại động vật hoang dã vẫn diễn ra âm ỉ. Nhiều chuyên gia cho rằng, cần nhìn nhận bản chất của vấn đề chính là nhu cầu tiêu thụ còn tồn tại trong xã hội. Nếu không triệt tiêu được “đầu ra”, mọi nỗ lực đánh vào “đầu vào” sẽ mãi chỉ là vòng luẩn quẩn. Luật sư Trần Cao Đại Kỳ Quân, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai nêu quan điểm: Còn cầu thì còn cung, bởi vậy phải kiểm soát ngay từ khâu tiêu thụ. Nếu không có người ăn thịt thú rừng hay sử dụng sản phẩm từ động vật hoang dã thì cũng chẳng ai đi săn bắt. Công tác tuyên truyền hiện nay vẫn dừng lại ở nhóm học sinh hoặc người dân vùng rừng núi vốn là đối tượng trực tiếp tham gia săn bắt. Trong khi đó, nhóm người tiêu dùng ở khu vực thành thị mới là mắt xích then chốt cần thay đổi nhận thức.

Chia sẻ thêm về thực tế thực thi pháp luật, ông Trần Đình Hưng, Phó Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Đạ Huoai (tỉnh Lâm Đồng) cho rằng: Theo các quy định hiện hành, có thể xử phạt hành chính tới 1 tỷ đồng hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đến 15 năm tù đối với hành vi vi phạm liên quan động vật hoang dã, nhưng việc xử lý trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn. Một trong những nguyên nhân là pháp luật cho phép nuôi, kinh doanh động vật hoang dã có nguồn gốc hợp pháp, cho nên lực lượng chức năng rất khó xác định thịt thú rừng đang được bán trong nhà hàng là hợp pháp hay không? Đặc biệt, khi tang vật là thực phẩm đông lạnh hoặc đã qua chế biến thì việc giám định nguồn gốc lại càng phức tạp, đòi hỏi chuyên môn cao và thời gian kéo dài.

CẦN HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Huỳnh Tiến Duy, Phó Trưởng khoa Luật hình sự, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh nhận định: Trong hơn hai thập niên qua, Việt Nam đã xây dựng tương đối đầy đủ hệ thống quy định pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã. Tuy nhiên, cách tiếp cận vẫn còn manh mún, chưa thống nhất, chủ yếu phân tán giữa các ngành: môi trường, nông nghiệp, y tế, tư pháp...

Hiện nay, các hành vi vi phạm chủ yếu được xử lý theo Điều 234 (tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm) và Điều 244 (tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ) của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuy nhiên, sự phân hóa tội danh theo hai chương Kinh tế và Môi trường với hai nhóm động vật (IB và IIB) khiến việc xử lý chưa bảo đảm công bằng, hợp lý. Cụ thể, tại Điều 244, dù hành vi vi phạm liên quan sản phẩm của động vật nhóm IB có nguy cấp đến đâu nhưng vẫn chỉ bị truy tố theo khoản 1 nếu chưa đủ định lượng cá thể. Đây là một bất cập, sản phẩm nguy hiểm vẫn có thể gây hậu quả nghiêm trọng nhưng lại không bị xử lý nghiêm tương ứng.

Tiến sĩ Nguyễn Thị Ánh Hồng, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất: Cần sửa đổi Điều 244 để xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm liên quan từ hai loài trở lên, không chỉ căn cứ số lượng cá thể. Đồng thời, cần hạ ngưỡng định lượng xử lý với nhóm IIB để tiệm cận các quy định đối với hàng cấm thông thường. Động vật hoang dã không chỉ là tài sản mà còn là thành phần không thể thay thế trong hệ sinh thái. Vì thế, mức xử phạt cần nghiêm hơn, thậm chí nghiêm hơn cả hàng hóa cấm thông thường. Ngoài ra, các chuyên gia cũng đề xuất cần bổ sung quy định để xử lý hình sự với những hành vi vi phạm hành chính tái phạm, nhằm nâng cao tính răn đe và bảo đảm sự liêm chính trong áp dụng pháp luật.

Một khía cạnh khác ít được chú ý nhưng mang tính cảnh báo là nguy cơ sức khỏe từ việc tiêu thụ động vật hoang dã. Giám đốc Khu Bảo tồn Thiên nhiên- Văn hóa Đồng Nai Nguyễn Hoàng Hảo đặt vấn đề: “Săn bắt thú rừng vốn đã khó, cho nên để giữ thịt không phân hủy, nhiều đối tượng sử dụng chất bảo quản. Đó là chất gì, an toàn hay không, ai kiểm chứng được?”.

Ở góc nhìn y học, Tiến sĩ Lê Minh Thông, giảng viên Trường đại học Quốc tế (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) cảnh báo: Việc sử dụng thịt động vật hoang dã là hành vi nguy hiểm đối với sức khỏe cộng đồng. Nhiều loại virus có thể truyền từ động vật sang người và tạo ra các biến chủng khó kiểm soát, điển hình như HIV/AIDS hay Covid-19 đều có nguồn gốc từ động vật hoang dã

Xem thêm