Chung quanh câu chuyện bảo tồn, phát triển rừng, động, thực vật, bảo vệ môi trường gắn với du lịch xanh tại đây, phóng viên Báo Nhân Dân đã có cuộc phỏng vấn Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Hảo, Giám đốc Khu Bảo tồn thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai.
Bảo tồn và phát triển rừng bền vững
Phóng viên: Khu Bảo tồn đang quản lý, bảo tồn, phát triển diện tích rừng lớn được ví như “lá phổi” của khu vực Đông Nam Bộ. Ông có thể cho biết những kết quả chính đạt được công tác bảo tồn, phát triển rừng trong thời gian qua?
Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Hảo: Khu Bảo tồn thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai (Khu Bảo tồn) thành lập năm 2004 được giao quản lý với tổng diện tích 100.572ha, trong đó 68.051 ha diện tích rừng và 32.520 ha diện tích mặt nước hồ Trị An.
Sau hơn 20 năm thành lập và phát triển, Khu Bảo tồn luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai; sự phối hợp, hỗ trợ của các sở ngành, chính quyền địa phương và người dân, cùng với sự đoàn kết, nổ lực của tập thể đội ngũ viên chức và lực lượng kiểm lâm.
Trước hết, diện tích rừng tự nhiên được giữ vững ổn định, với tỷ lệ che phủ rừng luôn duy trì hơn 85%, góp phần điều hòa khí hậu, bảo vệ nguồn nước hồ Trị An và môi trường sinh thái của toàn vùng Đông Nam Bộ. Đây là thành quả quan trọng, thể hiện quyết tâm của tập thể cán bộ, kiểm lâm trong công tác quản lý, bảo vệ rừng.
Chất lượng và trữ lượng rừng ngày càng được nâng cao thông qua áp dụng các biện pháp lâm sinh như khoanh nuôi, nuôi dưỡng rừng và trồng mới, trồng bổ sung rừng bằng các loài cây gỗ lớn bản địa. Điều này góp phần quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, bảo vệ nguồn nước hồ Trị An và môi trường sinh thái của vùng Đông Nam Bộ.
Công tác bảo vệ rừng được thực hiện quyết liệt và đồng bộ. Lực lượng kiểm lâm thường xuyên tổ chức tuần tra, kiểm soát, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm, nhất là phá rừng, khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép. Nhờ đó, số vụ vi phạm giảm qua từng năm, không để xảy ra điểm nóng về mất rừng.
Khu Bảo tồn cũng đã ứng dụng công nghệ trong quản lý rừng, như hệ thống GPS, Flycam, SMart, phần mềm theo dõi diễn biến tài nguyên rừng… giúp công tác kiểm tra, giám sát rừng được chính xác, minh bạch và hiệu quả hơn.
Xác định con người là yếu tố then chốt cho công tác quản lý, bảo vệ rừng và phát triển bền vững, do đó, Khu Bảo tồn luôn quan tâm và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ công tác quản lý bảo vệ rừng, đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ và đời sống cho cán bộ, viên chức và người lao động.
Đặc biệt đa dạng sinh học trong khu bảo tồn được bảo vệ và phục hồi rõ rệt. Nhiều loài động vật quý hiếm như: voi, bò tót, vượn đen má vàng, chà vá chân đen… được ghi nhận xuất hiện thường xuyên. Các loài thực vật sinh trưởng, phát triển tốt. Các hệ sinh thái rừng tự nhiên được bảo tồn nguyên vẹn, góp phần quan trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái, bảo vệ nguồn gen quý của vùng Đông Nam Bộ.
Ngoài ra, Khu bảo tồn còn chú trọng gắn công tác bảo tồn với phát triển sinh kế cho người dân. Thông qua các chương trình giao khoán, khoanh nuôi tái sinh, trồng rừng và phát triển du lịch sinh thái, người dân vừa có thêm thu nhập ổn định, vừa tham gia tích cực vào công tác bảo vệ rừng.
Hoạt động giáo dục môi trường và tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng được thực hiện thường xuyên, nhất là đối với học sinh, đoàn viên thanh niên và người dân sống quanh khu bảo tồn, tạo chuyển biến tích cực trong ý thức bảo vệ rừng.
Có thể khẳng định, với những kết quả đó, Khu Bảo tồn đã và đang giữ vững vai trò “lá phổi xanh” của Đông Nam Bộ, đóng góp to lớn trong việc bảo vệ môi trường, phát triển bền vững và bảo đảm an ninh sinh thái cho khu vực.
Phóng viên: Ngoài diện tích rừng như đã đề cập trên, hiện nay Khu Bảo tồn có nhiều động, thực vật quý hiếm, vậy ông có thể cho biết công tác bảo tồn, phát triển được đơn vị thực hiện đạt được kết quả như thế nào?
Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Hảo: Khu Bảo tồn là nơi được đánh giá cao về đa dạng sinh học. Nơi đây đã ghi nhận được hơn 1.500 loài thực vật, hơn 2.000 loài động vật, trong đó có nhiều loài động, thực vật nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Danh lục đỏ IUCN.
Công tác điều tra, giám sát động, thực vật được triển khai thường xuyên. Khu Bảo tồn đã ứng dụng bẫy ảnh, flycam để giám sát động vật rừng. Qua theo dõi bẫy ảnh ghi nhận các loài động vật phân bố đều khắp trên diện tích do Khu Bảo tồn quản lý, trong đó có nhiều loài nguy cấp, quý, hiếm. Đối với thực vật thì Khu Bảo tồn cũng đã thực hiện xong việc định vị đối với các cây rừng có đường kính hơn 40cm. Đây là cơ sở quan trọng để Khu Bảo tồn đề ra các giải pháp bảo tồn hiệu quả các loài động, thực vật.
Về phục hồi sinh cảnh rừng được chú trọng, Khu Bảo tồn triển khai khoanh nuôi tái sinh tự nhiên và trồng mới hàng trăm ha rừng cây gỗ lớn bản địa, ưu tiên các loài cây gỗ quý. Đồng thời Khu Bảo tồn đã thực hiện việc cải tạo sinh cảnh cho động vật hoang dã, trong đó cải tạo phục hồi thường xuyên các trảng cỏ tạo thêm nguồn thức ăn, bổ sung muối khoáng và nước vào các cống bi, bể chứa cho động vật hoang dã sử dụng trong mùa khô.
Khu Bảo tồn cũng đã đẩy mạnh việc hợp tác với các viện nghiên cứu, các trường đại học và các tổ chức về bảo tồn đa dạng sinh học trong nước và quốc tế để triển khai các chương trình dự án liên quan đến công tác bảo tồn đa dạng sinh học.
Phối hợp với nhiều đơn vị, tổ chức và người dân tái thả nhiều cá thể động vật hoang dã về môi trường sống tự nhiên, qua đó góp phần phục hồi quần thể loài trong tự nhiên.
Nhờ những nỗ lực đó, quần thể động, thực vật trong Khu Bảo tồn được duy trì ổn định, nhiều loài quý hiếm có dấu hiệu phục hồi phát triển, hệ sinh thái rừng được bảo vệ bền vững.
Tạo đột phá về phát triển du lịch xanh
Phóng viên: Việc phát triển du lịch theo hướng xanh là xu thế đang được cả nước cũng như tỉnh Đồng Nai nỗ lực triển khai. Vậy, ông có thể cho biết vấn đề này ở Khu Bảo tồn đang được triển khai như thế nào?
Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Hảo: Phát triển du lịch theo hướng xanh, bền vững là xu thế tất yếu của xã hội và là mục tiêu chung của tỉnh Đồng Nai. Trong thời gian qua, Khu Bảo tồn cũng xác định đây là bước đột phá trong định hướng phát triển của đơn vị.
Hiện nay, Khu Bảo tồn đã và đang triển khai một số mô hình du lịch xanh như: mô hình du lịch sinh thái, giáo dục môi trường, du lịch cộng đồng vùng đệm gắn với tìm hiểu văn hóa dân tộc bản địa Chơ ro... các hoạt động trồng cây, tái tạo rừng dành cho các doanh nghiệp và các tổ chức, du khách...
Các hoạt động này bảo đảm nguyên tắc bảo vệ hệ sinh thái, hạn chế tối đa tác động đến tài nguyên rừng và nâng cao nhận thức của du khách, ... Đồng thời, việc sử dụng năng lượng sạch, hạn chế rác thải nhựa, bảo tồn các loài động, thực vật quý hiếm và phục hồi rừng cũng là những nội dung được tích cực lồng ghép vào quá trình hoạt động du lịch.
Chúng tôi cũng đang đẩy mạnh việc phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước để học hỏi mô hình quản lý du lịch sinh thái hiệu quả, đồng thời nâng cao năng lực cho đội ngũ làm du lịch địa phương, bảo đảm vừa tạo sinh kế cho người dân, vừa không gây áp lực lên tài nguyên rừng.
Hướng tới, Khu Bảo tồn sẽ tiếp tục hoàn thiện hạ tầng sinh thái thân thiện, số hóa thông tin du lịch và nâng cao chất lượng đa dạng hóa các sản phẩm du lịch xanh có giá trị giáo dục, góp phần đưa Đồng Nai trở thành điểm đến hấp dẫn trên bản đồ du lịch sinh thái cả nước.
Phóng viên: Đâu là những khó khăn đang đặt ra hiện nay trong thu hút các nhà đầu tư phát triển du lịch đủ tiềm lực, thưa ông?
Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Hảo: Mặc dù tiềm năng phát triển du lịch theo hướng xanh, bền vững là rất lớn, nhưng việc thu hút nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực này tại Khu Bảo tồn vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Đầu tiên là về hạ tầng giao thông và dịch vụ hỗ trợ du lịch chưa đồng bộ, khiến việc tiếp cận Khu Bảo tồn còn hạn chế, đặc biệt đối với các đoàn khách đông hay du khách quốc tế.
Nhiều quy định về đầu tư trong rừng đặc dụng cũng như các cơ chế quản lý về bảo tồn, tài nguyên môi trường, văn hóa lịch sử còn chồng chéo nhau dẫn đến các nhà đầu tư còn e ngại trong việc tham gia đầu tư hoặc thuê môi trường rừng vì mất khá nhiều thời gian cho các thủ tục pháp lý mà cơ hội để thu hồi vốn đầu tư có thể không cao.
Với mục tiêu là “Du lịch xanh bền vững” Khu Bảo tồn luôn mong muốn được đón tiếp, ưu tiên hợp tác với những nhà đầu tư "có tâm, có tầm" đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái chất lượng cao đồng thời cam kết sâu trong việc bảo tồn.
Phóng viên: Trong công tác bảo tồn, phát triển rừng, động thực vật quý hiếm và phát triển du lịch, ngoài sự nỗ lực của đơn vị, thì theo ông cần sự hỗ trợ gì về cơ chế, chính sách của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, cũng như các bộ, ngành?
Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Hảo: Khu Bảo tồn rất cần sự hỗ trợ về chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư du lịch sinh thái xanh, hỗ trợ nguồn vốn, hạ tầng giao thông và khoa học công nghệ trong công tác bảo tồn, giám sát động thực vật quý hiếm, công tác phát triển rừng, cùng cơ chế phối hợp linh hoạt giữa các ngành trong thẩm định, cấp phép dự án. Đồng thời, đề nghị tỉnh và các bộ tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ, đào tạo nhân lực và quảng bá hình ảnh Khu bảo tồn.
Tỉnh Đồng Nai đã chủ trương phát triển du lịch gắn với văn hóa, lịch sử, thiên nhiên trong đó tập trung vào phát triển đột phá các sản phẩm du lịch sinh thái. Do đó, rất cần sự quan tâm, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, tạo điều kiện ban hành các chủ trương, nghị quyết và văn bản quy phạm pháp luật về công tác bảo tồn phát triển rừng, phát triển du lịch một cách phù hợp. Trong đó, cần có những chính sách, cơ chế liên quan tới đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ tại Đồng Nai.
Cùng với đó, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực như đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, chuyển giao công nghệ, ứng dụng số hóa, du lịch thông minh…; chính sách ưu đãi về đầu tư cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp: ưu đãi về thuế, giảm các phí dịch vụ đầu tư hạ tầng du lịch, khu nghỉ dưỡng, giải trí.
Tăng cường công tác truyền thông quảng bá, xúc tiến du lịch; tạo điều kiện hỗ trợ chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng tại một số dự án công trình văn hóa đã được Ủy ban nhân dân tỉnh chấp thuận chủ trương.
Khu Bảo tồn cũng mong muốn các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh có cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ thêm cho lực lượng thực hiện công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại các vườn quốc gia và Khu Bảo tồn, đặc biệt là lực lượng kiểm lâm, lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng. Vì đây là lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ rừng tại gốc, bảo vệ đa dạng sinh học trong khi điều kiện sinh hoạt, làm việc vùng sâu xa còn gặp nhiều khó khăn.
Tiếp tục quan tâm bố trí nguồn lực đầu tư cho công tác bảo tồn và phát triển rừng, đặc biệt là kinh phí tuần tra, kiểm soát, trang thiết bị bảo vệ rừng, phục hồi sinh cảnh và cứu hộ động vật hoang dã. Đây là những hoạt động đặc thù, đòi hỏi chi phí lớn, nhưng lại mang ý nghĩa rất quan trọng trong việc duy trì hệ sinh thái rừng bền vững.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!