Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đây không chỉ là một chính thể mới, mà còn thiết lập một hệ hình phát triển mới cho quốc gia: hệ hình của một nước độc lập, hướng tới dân chủ, tự do và tiến bộ, một điều trước đó chưa từng tồn tại trong lịch sử dân tộc, kể cả trong các triều đại hưng thịnh nhất.
Bài 1: Từ Tân Trào đến thắng lợi hoàn toàn
Rọi vào lịch sử, những câu chuyện về toàn dân kháng chiến là bài học kinh nghiệm quý báu về huy động sức dân, đồng thời lý giải vì sao “dân là gốc” là tư tưởng xuyên suốt trong quá trình dựng nước, giữ nước và tiến trình của cách mạng Việt Nam từ sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công.
Sinh thời, nhà báo Thép Mới đã viết bài “Khi Tân Trào nhập vào Hà Nội”, với khẳng định đanh thép rằng: Sức mạnh nhân dân là nền tảng với đóng góp to lớn về sức người, sức của. Nền tảng ấy được củng cố, phát huy, tiếp tục nối dài trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và dựng xây Tổ quốc “hơn mười ngày nay”.
Trung tâm lãnh đạo phong trào cách mạng
Trước sự phát triển nhanh chóng của Chiến tranh thế giới thứ hai, khi phong trào cách mạng trong nước ngày càng sục sôi, ngay từ tháng 7/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã chuẩn bị tổ chức hai cuộc họp quan trọng khẩn trương xúc tiến việc tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đó là Hội nghị Cán bộ toàn quốc của Đảng và Quốc dân đại hội tại Tân Trào, Tuyên Quang.
Những ngày Trung ương Đảng, Bác Hồ ở Tân Trào, vùng quê yên bình sôi động hơn khi có nhiều cán bộ cách mạng, bộ đội về làng, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nhân dân, được nhân dân đùm bọc, che chở, bảo vệ.
Tuyên Quang được lựa chọn làm Thủ đô, trung tâm của các An toàn khu, nơi đặt Tổng hành dinh lãnh đạo cuộc kháng chiến kiến quốc vì vùng đất này có điều kiện thuận lợi cho cả tiến công và phòng thủ. Song điều mấu chốt hơn cả, là Tuyên Quang có cơ sở chính trị vững chắc, có chính quyền vững mạnh, từng là Thủ đô Khu giải phóng, trung tâm căn cứ địa cách mạng của cả nước. Ngay từ trước cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho chuẩn bị xây dựng căn cứ địa kháng chiến. Nhiều địa điểm thuộc Tuyên Quang được lựa chọn làm “đại bản doanh của cách mạng”.
Những ngày Trung ương Đảng, Bác Hồ ở Tân Trào, vùng quê yên bình sôi động hơn khi có nhiều cán bộ cách mạng, bộ đội về làng, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nhân dân, được nhân dân đùm bọc, che chở, bảo vệ.
Cựu chiến binh Hoàng Ngọc, thôn Tân Lập, xã Tân Trào (Tuyên Quang) là người được gặp Bác Hồ ngày ấy vẫn nhớ như in buổi chiều 21/5/1945, khi ông cùng bạn chơi đánh quay bên hiên nhà thì có một đoàn cán bộ cách mạng về làng Kim Long (nay là thôn Tân Lập): Khi đoàn cán bộ đi vào nhà ông Nguyễn Tiến Sự, có một cán bộ cao tuổi gầy gò, đôi mắt sáng đi thẳng đến chỗ chúng tôi và hỏi “các cháu đã được đi học chưa?”, rồi Người căn dặn “mai kia có trường, có lớp, các cháu được đến trường và phải cố gắng học thật giỏi”. Sự ân cần, gần gũi, từng lời từng tiếng như thấm vào lòng người của ông khiến bọn trẻ chúng tôi và nhân dân quý mến, gọi là ông Ké. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chúng tôi mới biết ông Ké chính là Bác Hồ!
Ngày 4/6/1945, Tổng bộ Việt Minh tuyên bố thành lập Khu giải phóng Việt Bắc để làm căn cứ địa chung cho cả nước, lấy Tân Trào làm trung tâm, xây dựng chính quyền, quân đội. Tân Trào trở thành Thủ đô Khu giải phóng. Tại đây, Trung ương Đảng và Bác Hồ đã có nhiều quyết sách quan trọng để lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Chớp thời cơ tổng khởi nghĩa
Cuối tháng 7 đầu tháng 8/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước đã cuồn cuộn từ Bắc chí Nam. Không khí khởi nghĩa nóng rực. “Chí lớn thu giang sơn/Giấu mình trong tre nứa”, tại lán Nà Nưa, dù lâm bệnh nặng nhưng lãnh tụ Hồ Chí Minh với dự cảm thiên tài đã căn dặn Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào ngày 13/8/1945, quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương.
Ngay đêm hôm đó, Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng đã hạ lệnh khởi nghĩa. Ủy ban khởi nghĩa cũng đã ra Quân lệnh số 1 nêu rõ: 12 giờ trưa 13/8/1945, phát-xít Nhật đã đầu hàng đồng minh, quân đội Nhật tan rã trên khắp các mặt trận.
Giờ tổng khởi nghĩa đã đến. Dưới mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, đồng bào hãy đem hết tâm lực ủng hộ đạo quân giải phóng, xung vào bộ đội, xông ra mặt trận, đánh đuổi quân thù. Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định về ta.
Ngày 16/8/1945, dưới gốc đa Tân Trào, đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt Ủy ban Khởi nghĩa đọc Quân lệnh số 1, làm lễ xuất quân. Sau lễ xuất quân, Quốc dân đại hội khai mạc tại đình Tân Trào, nhất trí tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, lập ra Chính phủ lâm thời do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch; quy định Quốc ca; Quốc kỳ.
Ở tuổi đại thọ (97 tuổi), ông Nguyễn Trung Chính, nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế vẫn ghi nhớ khí thế cách mạng sục sôi: “Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tôi tham gia phong trào của quần chúng giành chính quyền tại huyện Quảng Điền; cả làng cả nước đi giành chính quyền trong một khí thế hừng hực”.
Tại thành phố Huế - trung tâm đầu não của chế độ phong kiến nhà Nguyễn, ngày 22/8/1945, quần chúng nhân dân đã vùng lên biểu tình, chiếm lĩnh hầu hết các cơ quan, công sở và doanh trại lính bảo an. Tối 22/8, Ủy ban Khởi nghĩa của tỉnh gửi tối hậu thư cho vua Bảo Đại phải thoái vị. Chiều 23/8, hàng vạn người dân Thừa Thiên Huế và các đội cứu quốc quân tiến về Sân vận động Huế dưới rừng cờ đỏ sao vàng, hô vang khẩu hiệu “Việt Nam độc lập muôn năm!”, “Nước Việt Nam của người Việt Nam!”.
Khí thế cách mạng của quần chúng nhân dân như “triều dâng, thác đổ” đã biến cuộc mít-tinh của Chính phủ Trần Trọng Kim mừng việc Nhật trao trả quyền cai trị Nam Kỳ cho triều đình nhà Nguyễn ở Sân vận động Huế thành cuộc mít-tinh biểu dương lực lượng, giành chính quyền của cách mạng.
Từ Thủ đô Khu giải phóng Tân Trào, Lệnh Tổng khởi nghĩa được truyền đi và các tỉnh, thành phố trong cả nước đã lần lượt đứng lên khởi nghĩa. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc Lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chính quyền cách mạng “không đồng minh, không tiền, hầu như không vũ khí”, chỉ có sự ủng hộ của nhân dân, cùng lúc phải chống cả “giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm, nhưng với tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, nước Việt Nam độc lập dù non trẻ đã kiên cường chiến thắng đế quốc “sừng sỏ”.
Là một trong số hàng vạn thanh niên xung phong ở Nghệ An đã tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, ông Phạm Văn Hòa, ở phường Vinh Phú (Nghệ An), năm nay 89 tuổi, cho biết: Thực hiện lệnh tổng động viên phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ trong ngày Mồng 1 Tết Nguyên đán Giáp Ngọ (ngày 3/2/1954), đã có 32.000 dân công tỉnh Nghệ An cùng hàng nghìn tân binh, thanh niên xung phong, quân giới đã nô nức lên đường ra tiền tuyến. Tháng 2/1954, đã có 5.438 thanh niên Nghệ An nhập ngũ, huy động 6.600 dân công, đóng góp hơn 1,5 triệu ngày công để mở các tuyến đường ra trận. “Đêm núi rừng Tây Bắc, từng đoàn dân công hỏa tuyến, thanh niên xung phong đi như trẩy hội với “chị gánh, anh thồ” lương thực, vũ khí, đạn dược phục vụ chiến trường Điện Biên Phủ”- ông Hòa kể.
Sau Hiệp định Geneva, tháng 7/1954, đối diện với âm mưu chia cắt Việt Nam lâu dài, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, nhân dân Việt Nam buộc phải đi tiếp chặng đường 21 năm đấu tranh kiên cường, bền bỉ, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ và chính quyền tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975.
(Còn nữa)