Sự kiện là dịp để gặp gỡ thân nhân các nhân chứng lịch sử, lắng nghe những câu chuyện, ký ức và tiếp nhận các hiện vật quý, qua đó góp phần lưu giữ và lan tỏa tinh thần đấu tranh giành độc lập tới các thế hệ hôm nay và mai sau.
Tham dự tọa đàm có đại diện gia đình nhiều nhân chứng lịch sử tiêu biểu của Cách mạng Tháng Tám, gồm: ông Nguyễn Văn Trân, Thiếu tướng Trần Tử Bình, ông Nguyễn Khang, ông Xuân Thủy, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đại tướng Nguyễn Quyết, ông Lê Liêm, ông Trần Đình Long, ông Nguyễn Duy Thân, ông Lê Trọng Nghĩa, ông Đặng Kim Giang,…
Đến dự buổi tọa đàm còn có nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hà - nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cùng lãnh đạo các ban, phòng của Báo Nhân Dân.

Phát biểu khai mạc, đồng chí Lê Quốc Minh – Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam – nhấn mạnh: Hướng tới kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, các cơ quan báo chí đồng loạt triển khai chuỗi hoạt động “A80”, theo chỉ đạo của Đảng, Nhà nước từ cuối năm 2024, nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, đặc biệt với thế hệ trẻ, về mốc son giành độc lập của dân tộc.
Đồng chí Lê Quốc Minh cho biết, cả nước đang khởi công, khánh thành nhiều dự án lớn, tổ chức triển lãm, mang lại cảm xúc sâu sắc khi nhìn lại chặng đường 80 năm. Riêng Báo Nhân Dân triển khai nhiều tuyến bài, ấn phẩm, tổ chức triển lãm tại Bờ Hồ và đặc biệt là Concert Quốc gia ngày 10/8 với hơn 50.000 người cùng hòa vang Quốc ca.
Đồng chí khẳng định, sự kiện hôm nay góp phần lưu giữ, lan tỏa những câu chuyện quý về các nhà cách mạng, đồng thời bày tỏ mong muốn tiếp tục sáng tạo nhiều hình thức để thu hút giới trẻ đến với lịch sử.

Sau phát biểu khai mạc, Tổng Biên tập Báo Nhân Dân Lê Quốc Minh đã trao những món quà tri ân tới các gia đình nhân chứng lịch sử. Nhiều gia đình cũng trân trọng tặng lại những hiện vật, tư liệu quý cho Nhà truyền thống và Thư viện Báo Nhân Dân - trong đó có ảnh gốc, bản thảo, giấy tờ lịch sử hiếm.
Thực tế, 80 năm là một khoảng thời gian khá dài. Các nhân vật lịch sử trực tiếp tham gia lãnh đạo khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám ngày đó đã về với miền mây trắng. Hôm nay, tại tọa đàm là những chia sẻ về các nhà cách mạng từ những câu chuyện của chính thân nhân, những người gần gũi nhất với họ. Từ đó, bạn đọc có thêm thông tin và hình dung đầy đủ về các nhân vật lịch sử nước nhà - những người đã gắn bó, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mở đầu phần chia sẻ, bà Nguyễn Thanh Hương, con gái đồng chí Nguyễn Khang hồi tưởng về cha mình - người từng giữ vai trò Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội.
Bà Hương cho biết, cha bà tên thật là Nguyễn Văn Đệ, sinh tại làng Son, thôn Nguyên Kinh, xã Minh Hưng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, trong một gia đình trung nông. Nhờ gia đình có điều kiện, ông được đi học đến bậc thành chung, hết năm thứ hai.
Từ năm 1937, được anh em họ hàng giác ngộ, ông tham gia hoạt động cách mạng tại cơ sở ấn loát tài liệu bí mật của Đảng đặt tại làng Son. Năm 1938, ông được kết nạp Đảng. Đầu năm 1939, ông ra Hà Nội hoạt động trong phong trào thanh niên, học sinh, công nhân. Đầu năm 1940, ông giữ cương vị Bí thư Ban Chấp hành và Bí thư Đảng đoàn thanh niên Phản đế liên tỉnh Hà Nội-Hà Đông-Sơn Tây-Bắc Ninh. Cuối năm 1940, được đề cử vào Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, ông phụ trách công tác thanh niên, học sinh, báo Tiền Phong và phong trào thợ nhà máy xe lửa Gia Lâm.
Ngày 1/5/1941, do có nội gián, khi vừa dắt xe đạp ra khỏi nhà ở phố Sinh Từ, ông bị bắt cùng cờ, truyền đơn để trong cặp. Bị Tòa án Quân sự Pháp kết án tổng cộng 20 năm tù khổ sai (5 năm vì tàng trữ, phát tán tài liệu, cờ đỏ và tuyên truyền đấu tranh; 15 năm vì tham gia hãm đoàn tàu tốc hành Hà Nội - Sài Gòn nhằm hưởng ứng khởi nghĩa Nam Kỳ cuối năm 1940). Tháng 8/1941, ông bị đày lên nhà tù Sơn La, tham gia Ban huấn luyện và được sinh hoạt tại Chi bộ nhà tù.
Tháng 2/1944, trong lúc bị giải về Hà Nội để đưa ra Côn Đảo, khi đến Chợ Bờ, ông cùng một số đồng chí được Chi bộ tổ chức vượt ngục thành công. Ngay sau đó, ông dự Hội nghị Xứ ủy Đảng bộ Bắc Kỳ do Trung ương triệu tập và được bầu vào Thường vụ Xứ ủy (tháng 3/1944), phụ trách Hà Đông, Sơn Tây, An toàn Khu của Xứ ủy, đồng thời là biên tập viên báo Cứu Quốc (cùng các ông Lê Quang Đạo, Xuân Thủy).
Từ tháng 1/1945, ông tiếp tục làm Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, phụ trách trực tiếp Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, tờ báo Hồn nước và đội Danh dự Hà Nội. Nắm bắt thời cơ sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), ông chủ trương và trực tiếp tham gia cùng Lê Liêm, Nguyễn Bình… đánh úp đồn Bần Yên Nhân, tước vũ khí, gây thanh thế cho Việt Minh, củng cố niềm tin của nhân dân.
Ngày 17/8/1945, với cương vị Chủ tịch Ủy ban Quân sự Cách mạng Hà Nội, ông hòa mình vào dòng người mít tinh, biểu tình tuần hành, nhận thấy khí thế quần chúng đã dâng cao đến đỉnh điểm, sức mạnh đoàn kết nhân dân là vô địch. Dù chưa nhận được lệnh trực tiếp của Trung ương, ông vẫn cùng các đồng chí trong Xứ ủy kiên quyết phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội.

Tiếp nối hồi ức của bà Hương, ông Trần Kháng Chiến, con trai của Thiếu tướng Trần Tử Bình (1907-1967) đã chia sẻ nhiều kỷ niệm và câu chuyện về cuộc đời cách mạng của cha mình. Thiếu tướng Trần Tử Bình tên thật là Phạm Văn Phu, sinh ra trong một gia đình theo đạo Công giáo. Do ông nội từng đi lính thợ cho Pháp trong Thế chiến thứ nhất, nên cha anh được giáo xứ gửi đi học tại Trường dòng Hoàng Nguyên (giáo phận Hà Đông).
Năm 1926, khi nhà yêu nước Phan Chu Trinh qua đời, ông đã vận động các giáo sinh trong chủng viện để tang, nên bị đuổi học. Trong thời điểm còn loay hoay giữa ngã ba đường, ông gặp nhà giáo, nhà yêu nước trẻ tuổi Tống Văn Trân. Chính con người nhiệt huyết ấy đã dẫn dắt ông đi theo con đường cách mạng, vào Nam Bộ.
Cuối năm 1926, ông ký hợp đồng (công-tra) làm phu cao-su tại đồn điền Phú Riềng. Tại đây, theo chỉ đạo của đồng chí Ngô Gia Tự ông thành lập chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ngày 28/10/1929 tại Phú Riềng. Đầu năm 1930, trên cương vị Bí thư Chi bộ, ông cùng 6 đảng viên lãnh đạo cuộc đấu tranh của 5.000 phu cao-su, làm chủ đồn điền trong hơn một tuần lễ.
Sau đó, ông bị bắt, đưa ra xét xử tại Tòa Đại hình Sài Gòn, bị kết án và đày ra Côn Đảo từ năm 1931 đến 1936. Khi trở về, ông tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia Xứ ủy Bắc Kỳ và làm Bí thư Liên khu C (gồm Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình).

Ngày 22/12/1943, ông bị bắt tại Đồng Châu (tỉnh Thái Bình, nay thuộc Hưng Yên) và giam ở Hỏa Lò, Hà Nội từ năm 1944. Tháng 3/1945, ông cùng hơn 100 tù chính trị tổ chức vượt ngục thành công qua tường rào và cống ngầm. Từ đó, ông lấy tên Trần Tử Bình.
Tháng 5/1945, ông tham gia Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, cùng đồng chí Nguyễn Khang tổ chức Hội nghị Xứ ủy ở làng Vạn Phúc ngày 14/8/1945–15/8/1945 và quyết định thành lập Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội (hay Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội). Ngày 17/8/1945, ông và đồng chí Nguyễn Khang phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội và các tỉnh Bắc Bộ vào ngày 19/8/1945.
Năm 1948, ông được phong quân hàm Thiếu tướng. Trong Quân đội, ông có nhiều đóng góp cho công tác đào tạo cán bộ, công tác Đảng, công tác thanh tra.
Năm 1959, ông được điều sang công tác ngoại giao, giữ chức vụ Ðại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, Mông Cổ. Ở cương vị này, ông luôn củng cố, phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và các quốc gia khác.
Ông Chiến nhấn mạnh, cha mình là cán bộ cao cấp duy nhất của Đảng và Quân đội xuất thân từ Công giáo, mang tên Thánh Phê-rô Phạm Văn Phu, là một minh chứng tiêu biểu cho tinh thần đại đoàn kết dân tộc.

Tiếp nối những dòng hồi ức về mùa thu lịch sử, ông Nguyễn Đoan Hùng, con trai ông Nguyễn Văn Trân, kể lại: Cha ông sinh ngày 15/12/1916 (theo lý lịch của Chính phủ ghi 15/1/1917) tại Bắc Ninh, trong một gia đình nông dân. Năm 14 tuổi, ông Trân ra Hà Nội, bắt đầu giác ngộ cách mạng trong thời gian làm nghề in.
Năm 1936, ông vào Đảng. Đến năm 1940, bị bắt và đày lên nhà tù Sơn La. Năm 1942, phong trào bị đàn áp mạnh, Trung ương chỉ đạo tổ chức vượt ngục để tiếp tục hoạt động. Năm 1943, dưới sự tổ chức của đồng chí Tô Hiệu, 4 người, trong đó có cha ông vượt ngục thành công. Sau khi trở về, ông thường nhắc đến đồng chí Lò Văn Giá - người dân tộc được giác ngộ và dẫn đường cho đoàn vượt ngục, nhưng không may bị địch sát hại. Ông luôn căn dặn gia đình giữ gìn tình cảm, quan tâm, thăm hỏi gia đình đồng chí Giá, và đến nay mối liên hệ ấy vẫn được duy trì.
Nhắc về thời điểm Cách mạng Tháng Tám, ông Nguyễn Đoan Hùng kể: Bố tôi hay nhắc đến chuyện có lần, khi cơ sở ở Đồng Kỵ bị lộ, ông Trân và các đồng chí rút sang Đình Bảng. Trong đêm, tiếng súng nổ, đồng chí Trường Chinh nói: “Nhật-Pháp đánh nhau rồi!”. Đó là tháng 3/1945. Sau đó Đảng ta đã ra chỉ thị "Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", tinh thần chỉ đạo khi ấy là: Địa phương nào đủ điều kiện thì lập tức đứng lên giành chính quyền.
Từ Quốc dân đại hội Tân Trào, Đoàn đại biểu Bắc Bộ trở về Hà Nội để tham gia khởi nghĩa giành chính quyền, nhưng khi qua Vĩnh Yên thì gặp sự cố vỡ đê nên không kịp về. Đến Chèm, cờ đỏ sao vàng đã rợp trời. Sau đó, đoàn vượt sông thì bị dân quân bắt, do không biết. Đến khi gặp đồng chí Hoàng Tùng, mới nhận ra cùng là "quân mình".

Nhắc đến Đại tướng Nguyễn Quyết, bà Nguyễn Phương Trung, con gái Đại tướng không giấu nổi niềm xúc động, xen lẫn tự hào. Với bà Trung, Đại tướng không chỉ là người cha giàu tình thương, là tấm gương học tập suốt đời theo câu nói “Học, học nữa, học mãi”, mà còn là một người kiên định mục tiêu, sáng tạo giải pháp trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng.
Sinh ra trong một gia đình nghèo tại xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, năm 15 tuổi chàng trẻ Tiến Văn (tên thật của Đại tướng) lên Hà Nội làm thư ký kiêm phát hành Báo Đuốc Tuệ (Trung tâm Phật giáo Bắc Kỳ). Sớm được giác ngộ và tham gia cách mạng, năm 1939, Nguyễn Quyết được Đảng giao nhiệm vụ trở về Hưng Yên xây dựng phong trào. Năm 1940, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương phụ trách Bí thư Thanh niên phản đế Kim Động. Năm 1941, được Xứ ủy Bắc Kỳ gọi trở lại Hà Nội phụ trách công tác vận động công nhân làm nòng cốt gây dựng phong trào. Sau khi tham dự lớp học quân sự chỉ gần một tháng tại Thái Nguyên, giữa năm 1944, Nguyễn Quyết được phân công phụ trách công tác quân sự Hà Nội, được Trung ương Đảng và Bác Hồ chỉ định làm Bí thư Thành ủy Hà Nội, khi đó mới ngoài 22 tuổi.
Trong không khí sôi sục chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng Tháng Tám năm 1945, trên cơ sở phân tích tình hình cụ thể, ngay trong đêm 17/8/1945, đồng chí Nguyễn Quyết, khi đó là Bí thư Thành ủy, ủy viên Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội, ủy viên Quân sự Ủy ban Khởi nghĩa đã triệu tập cuộc họp khẩn cấp đề xuất: Hà Nội tiến hành khởi nghĩa vào ngày 19/8/1945 bằng lực lượng tại chỗ.
Trưa ngày 18/8/1945, toàn bộ kế hoạch khởi nghĩa của Thành ủy Hà Nội đã được Thường vụ Xứ ủy hoàn toàn nhất trí thông qua. Đại tướng Nguyễn Quyết được giao chỉ huy đoàn biểu tình đi chiếm trại bảo an binh ở 40 Hàng Bài. Ở thời điểm ấy, trong trại có hơn 1.000 lính khố xanh với trang bị vũ khí đầy đủ. Khi vấp phải phản ứng của quân Nhật kéo đến đây, ông đã bình tĩnh thuyết phục tại chỗ, kết hợp với phái viên của Ủy ban Khởi nghĩa vào đấu tranh bằng phương pháp vừa kiên quyết vừa mềm dẻo thấu tình đạt lý, khiến quân Nhật rút về trại không gây thêm khó khăn cho khởi nghĩa. Khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội thành công, tránh đổ máu, trở thành nguồn động lực cổ vũ lớn lao đối với phong trào khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước.
Trong suốt cuộc đời binh nghiệp của mình, Đại tướng Nguyễn Quyết đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp tại Liên khu 5, chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía bắc với dấu ấn phong trào “làm giàu đánh thắng”.
Dù ở trên cương vị chỉ huy cấp cao, nhưng Đại tướng Nguyễn Quyết luôn mang nặng nghĩa tình với đồng đội. Chứng kiến sự khó khăn thiếu thốn của bộ đội khi đi công tác tại Vị Xuyên, Hà Giang, Đại tướng đã tìm cách cấp đất hoặc giúp vật liệu làm nhà cho cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng và ông được gọi là “Tướng cơ sở”, “Tướng chính sách”.
Cho đến những ngày cuối đời, trên bàn làm việc của ông luôn để tấm ảnh ông đi thăm Trường Sa năm 1989-Trường Sa luôn trong tim ông, thể hiện nỗi nhớ da diết của ông với Trường Sa là một phần thiêng liêng của Tổ quốc, nơi mà những người lính những người đồng đội thân yêu của ông đang ngày đêm canh giữ bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc Việt Nam yêu dấu.

Là một trong những người có mối quan hệ thân thiết với gia đình ông Trần Đình Long, nguyên cố vấn của Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội, ông Trần Kiến Quốc (con trai nhà cách mạng Trần Tử Bình), được đại diện gia đình nhà cách mạng Trần Đình Long ủy quyền chia sẻ về những đóng góp của ông tại tọa đàm Báo Nhân Dân.
Ông Quốc cho biết, nhóm “đại gia đình Ủy ban Quân sự Cách mạng” đã hình thành từ hàng chục năm nay, nhưng vẫn luôn đau đáu vì thiếu vắng gia đình bác Trần Đình Long. Phải đến năm 2024, qua bạn bè tại Australia, ông mới liên lạc được với ông Trần Đình Lương (con trai ông Trần Đình Long).
Nói về những đóng góp của nhà cách mạng Trần Đình Long, ông Quốc chia sẻ: Bác Long sinh năm 1904, là người lớn tuổi nhất trong Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội khi ấy, 41 tuổi. Học tại Nam Định, sau đó sang Campuchia rồi du học Pháp. Tại đây, bác tham gia phong trào cộng sản, là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, và được cử sang học tại Đại học Viễn Đông (Moscow) giai đoạn 1928–1931.
Trở về Việt Nam, ông Trần Đình Long hoạt động trong báo chí công khai của Đảng ta cùng các đồng chí Trường Chinh, Trần Huy Liệu có nhiều đóng góp trong công tác báo chí… Nhiều lần bị địch bắt, cho đến năm 1940, ông Long bị bắt lần thứ ba và đày lên Sơn La. Tại nhà tù Sơn La, ông vẫn kiên trì hoạt động. Tháng 3/1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, Chi ủy Sơn La đã đấu tranh với cai ngục Pháp yêu cầu trả tự do, ông Long trở về Hà Nội, ngay lập tức liên lạc với Xứ ủy để tiếp tục hoạt động Cách mạng.
Sau Hội nghị Xứ ủy Bắc Kỳ tại Vạn Phúc (Hà Đông) quyết định thành lập Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội, ông Long được mời tham gia với vai trò cố vấn.
Hồi tưởng về câu chuyện tình của nhà cách mạng Trần Đình Long, ông Quốc bồi hồi kể lại: Bác Long cưới một người con gái Hà Nội tên là Phương. Hai ông bà hẹn thề “sinh con sẽ đặt tên theo lối chơi chữ lồng ngược với Long-Phương”. Sau đó năm 1938, bà đã sinh con gái đầu tiên đặt tên là Phong (là tên ghép Ph + ong).
Năm 1940, khi ông Long bị đày lên Sơn La, bà Phương vẫn kiên trì thăm nuôi, gửi thuốc lá, đường, muối, để cho đồng bào dân tộc dựng cho ông một căn lều nhỏ trong rừng bản Hẹo. Mỗi khi đoàn tù chính trị đi lấy củi, bà lại lót tay quản tù để có thể gặp ông. Thời gian sau, ông nhận được thư từ Hà Nội báo tin bà sinh con trai tên là Lương (ghép chữ L + ương) kết quả của mối tình bền chặt.

Qua những câu chuyện từ gia đình các nhà cách mạng, nhà sử học Dương Trung Quốc chia sẻ cảm xúc của mình, là một người thuộc lớp hậu sinh nhưng có điều kiện nghiên cứu tiếp cận lịch sử, gặp gỡ những nhân vật lịch sử tham gia một số sự kiện quan trọng, ông thấu hiểu và trân trọng những chứng nhân lịch sử.
“Việc Báo Nhân Dân tổ chức sự kiện gặp gỡ đầy ý nghĩa như hôm nay cũng là cách thiết thực góp phần vào cung cấp, bổ sung các nguồn tư liệu lịch sử, nối dài sự phát triển của xã hội từ lịch sử”, nhà sử học Dương Trung Quốc bày tỏ.
Ông Dương Trung Quốc đặc biệt nhấn mạnh tới tư duy của thế hệ cha ông về cách mạng là sáng tạo và tầm nhìn chiến lược của thế hệ những người tuổi ngoài 20 thời kỳ cách mạng đó đã làm nên sự nghiệp lớn, là tiền để để khích lệ thế hệ trẻ sau này tiếp bước và phấn đấu, rèn luyện.

Chia sẻ những ký ức về bố mẹ và những người đồng chí của họ trong Cách mạng Tháng Tám, ông Nguyễn Duy Thành, con trai út của ông Nguyễn Duy Thân, nguyên ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ cho biết: Cha ông sinh năm 1917, ngay khi còn học tại Trường Bưởi, đã sớm được giác ngộ cách mạng. Năm 1938, do bị mật thám theo dõi, ông buộc phải rời trường để hoạt động bí mật, nhận nhiệm vụ vận động giới trí thức, tiểu thương và tư sản ủng hộ phong trào Việt Minh.
Năm 1940, ông Thân vào Đảng Cộng sản Việt Nam và thành lập chi bộ đầu tiên tại xã Đình Bảng, gồm ba người: Nguyễn Duy Thân, Lê Quang Đạo, Lê Nguyễn Trọng Tỉnh.
"Năm 1941, bị chỉ điểm, bố tôi bị bắt và giải về nhà tù Sơn La. Trong hồi ký của các đồng chí cùng thời vẫn lưu câu nói của bố tôi khi bị cai ngục đánh: “Tao là tù chính trị, chứ không phải tù thường phạm. Chúng mày là đất nước dân chủ, tại sao lại đánh tao?”, ông Thành xúc động hồi tưởng lại.
Ông Thành kể: Sau khi Nhật đảo chính Pháp, ngày 18/3/1945, chúa ngục Sơn La áp giải tất cả tù chính trị về Nghĩa Lộ. Trên đường đi, chúa ngục bỏ trốn, giao lại súng cho tù chính trị của ta. "Khi đó bố tôi đi theo đoàn của bác Trần Quốc Hoàn và được phân công ở lại vùng Hiền Lương-Đan Phượng để gây dựng phong trào. Về sau, qua lời các bác các chú là đồng đội của bố, gia đình chúng tôi mới biết bố mình là người lập chi bộ Đảng đầu tiên ở vùng Hiền Lương- Đan Phượng (tỉnh Sơn Tây cũ). Đến tháng 6/1945, bố tôi trở lại Hà Nội tham gia Ủy ban Quân sự Cách mạng, tiếp tục vận động các tầng lớp nhân dân yêu nước, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa".
Trong quá trình hoạt động, ông Nguyễn Duy Thân và ông Nguyễn Khang trở thành “cặp bài trùng”: từ Ủy ban Nhân dân Cách mạng Bắc Bộ đến Liên khu 1 (ông Khang làm Chủ tịch, ông Thân làm Phó Chủ tịch), rồi cùng lên chiến khu Việt Bắc, mỗi người đảm trách một lĩnh vực.
“Tôi vẫn thường nói với chị Hương - con gái chú Nguyễn Khang – rằng: Bố chị và bố em đã đồng hành từ Ủy ban Cách mạng Hà Nội cho đến khi lên Việt Bắc,” ông Thành kể.
Nói thêm về mẹ mình ông Thành cho biết: Mẹ ông là bà Phan Thị Sáng (đại biểu Quốc hội, bà lấy tên là Vũ Thị Khôi) – cũng là một chiến sĩ hoạt động cách mạng từ rất sớm. Quê ở Sài Sơn (Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây), vào Đảng năm 1939, bà từng là Trưởng ban Cán sự tỉnh Sơn Tây. Sau khi hai anh trai bị bắt, đầu năm 1945 bà được điều sang Bắc Ninh hoạt động.
Đầu tháng 8/1945, bà dự Hội nghị toàn quốc của Đảng quyết định Tổng khởi nghĩa. Tại hội nghị, khi mọi người ra xem máy bay đồng minh thả dù tiếp tế, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tặng bà một chiếc dù và một khẩu súng ngắn. Ngày 15/8/1945, sau khi nghe tin Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng, bà Khôi cùng các đồng chí Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Văn Trân và Phương Trụ về ngay Hà Nội ngày để chỉ đạo phong trào tổng khởi nghĩa.
Trên đường về, bà bị ốm nặng. “Vì quá yếu, mẹ tôi được đồng chí Trần Quốc Hoàn cõng suốt quãng đường,” ông Thành kể lại. Theo hồi ký, đoàn đi từ Sơn Tây xuống bến đò Nhật Tảo, qua Chèm, vào cơ sở cách mạng – nơi họ nhận tin: “Hà Nội đã khởi nghĩa thành công”, ông Thành chia sẻ đầy xúc động.
Ông Thành tự hào cho biết: “Bố mẹ tôi là một cặp vợ chồng trưởng thành trong cách mạng – một trong hai cặp vợ chồng cùng là đại biểu Quốc hội khóa I, cùng với vợ chồng bà Lê Thị Xuyến và ông Lê Văn Hiến”. Gia đình ông Thành vẫn lưu giữ bức ảnh tám nữ đại biểu Quốc hội khóa I, chụp sau kỳ họp đầu tiên, khi mẹ ông dẫn các nữ đại biểu ra hiệu ảnh Khánh Ký ở phố Hàng Đào – nay đã trở thành di tích lịch sử.

Tiếp nối buổi tọa đàm, ông Nguyễn Trọng Yêm, con trai ông Xuân Thủy – nguyên Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ, phụ trách Báo Cứu Quốc kể về cuộc đời và sự nghiệp của cha mình.
Ông Nguyễn Trọng Yêm cho biết, cha ông có tên khai sinh là Nguyễn Trọng Nhâm, sinh ngày 2/9/1912, mất năm 1985, quê tại làng Canh thuộc tứ danh hương Mỗ, La, Canh, Cót của tỉnh Hà Đông cũ, nay là phường Xuân Phương, thành phố Hà Nội.
Nhớ về cha, ông Nguyễn Trọng Yêm nhắc đến những bài thơ chan chứa khí phách mà nhà yêu nước Xuân Thủy viết trong thời gian bị giam ở nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội:
“Đế quốc tù ta, ta chẳng tù
Ta còn bộ óc ta không lo,
Giam người khóa cả chân tay lại
Không thể ngăn ta nghĩ tự do”
(Trích bài thơ “Không giam được trí óc”)
Hay những câu đầy sức sống:
“Thu sang hoa cỏ già rồi
Suối reo lên để cho đời trẻ trung
Thu sang non nước lạnh lùng
Suối reo lên để cho lòng ta reo”
(Thơ đề tựa cho báo Suối Reo)
Nhà cách mạng Xuân Thủy không chỉ là một nhà thơ giàu cảm xúc, mà còn là một nhà báo lớn. “Xuân Thủy” là bút danh mà cha ông Yêm dùng từ những ngày đầu cầm bút và gắn bó trọn đời như một tên gọi của người chiến sĩ cách mạng. Trong suốt những năm tù đày, ông vẫn bí mật xuất bản báo Suối Reo, mỗi hai tháng một số.
Năm 1944, sau khi được trả tự do, ông Xuân Thủy được giao làm Chủ nhiệm Báo Cứu Quốc – cơ quan ngôn luận của Tổng bộ Việt Minh – có vai trò quan trọng trong cổ vũ tinh thần yêu nước và khối đại đoàn kết toàn dân. Những năm 1945, ông còn trực tiếp chỉ đạo cho ra đời của nhiều cơ quan báo chí lớn như Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam…
Cuối năm 1945, Đại hội báo giới được tổ chức và “Đoàn báo chí Việt Nam” ra đời dưới sự chỉ đạo trực tiếp của nhà báo, nhà cách mạng Xuân Thủy. Năm 1947, ông tiếp tục thành lập “Đoàn báo chí kháng chiến”; đến năm 1950, khi Hội những người viết báo Việt Nam được thành lập (nay là Hội Nhà báo Việt Nam), ông Xuân Thủy trở thành Chủ tịch Hội những người viết báo Việt Nam đầu tiên.
Ông Yêm tự hào rằng, ngoài là nhà thơ, nhà báo xuất sắc, cha ông còn là một chính trị gia và nhà ngoại giao kiệt xuất. Bài báo Nhân Dân với tiêu đề “Xuân Thủy – Nhà cách mạng, nhà báo lỗi lạc” đã khắc họa rõ chân dung ấy:
“Có những ngôi sao càng nhìn càng thấy sáng; có những con người mà tài năng phát lộ trên nhiều lĩnh vực, lĩnh vực nào cũng đạt đỉnh cao. Ông Xuân Thủy là một người như vậy, đặc biệt là trên lĩnh vực báo chí và ngoại giao”.

Tại tọa đàm, ông Trịnh Hồng Anh, con trai nhà cách mạng Lê Liêm đã chia sẻ nhiều ký ức về cuộc đời hoạt động sôi nổi của cha mình. Ông Lê Liêm được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1939. Từ năm 1942-1943 ông bị bắt và giam giữ ở nhà tù Sơn La nơi nổi tiếng về sự khắc nghiệt, từng giam giữ nhiều chiến sĩ cộng sản kiên trung. Ra tù, ông lập tức trở lại hoạt động, tham gia Xứ ủy Bắc Kỳ, chỉ đạo phong trào Cách mạng và chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa tại nhiều tỉnh như Phúc Yên, Bắc Ninh, Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình.
Một dấu ấn đặc biệt là trận cướp đồn Nhật bằng tay không tại Bần Yên Nhân (Hưng Yên) năm 1945, phối hợp cùng lực lượng tự vệ, thu được 21 khẩu súng và đạn. Đây là một trận công đồn tiêu biểu, một minh chứng rõ rệt cho tinh thần dũng cảm, sự sáng tạo, chớp thời cơ của lực lượng Việt Minh góp phần cho việc cướp chính quyền trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám tại Hưng Yên.
Sau Cách mạng, ông đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng trong quân đội, từng là Cục trưởng Cục Chính trị, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, tham gia chỉ đạo các chiến dịch lớn như Biên giới, Tây Bắc, Điện Biên Phủ. Sau này, ông là Ủy viên Quân ủy Trung ương; Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III. Trong công tác, ông luôn là người năng nổ, tận tụy, quyết liệt và sâu sắc, được đồng đội kính trọng.
Ông cũng gắn bó với công tác văn hóa, giáo dục, để lại nhiều quyết sách có giá trị như: khởi xướng xây dựng Nhà hát Giao hưởng-Hợp xướng-Nhạc vũ kịch Việt Nam, Xưởng phim truyện Việt Nam, cải cách chương trình giáo dục, đưa giáo viên mẫu giáo vào biên chế.
Trong gia đình, ông là người cha, người ông mẫu mực, luôn căn dặn con cháu “Đảng luôn trong tim bố” - lời nhắc nhở giản dị nhưng chất chứa lòng trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng. Ngoài công việc, ông say mê nghệ thuật, chơi piano, sáng tác giao hưởng và hàng chục ca khúc thiếu nhi. Bản giao hưởng “Điện Biên Phủ sống mãi” của ông từng được Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia biểu diễn. Ông còn tự học tiếng Nga để nghiên cứu sách giáo dục, không ngừng mở rộng hiểu biết.
“Gia đình chúng tôi cũng thừa hưởng tình yêu văn hóa và giáo dục ấy. Nhờ sự khuyến khích và truyền cảm hứng từ ông, nhiều con cháu đã theo đuổi con đường nghệ thuật chuyên và không chuyên, có nhiều đóng góp đáng kể cho nền âm nhạc, hội họa, điêu khắc, điện ảnh của đất nước. Những đóng góp và tấm gương sống, làm việc của ông chính là nguồn cảm hứng lớn lao cho thế hệ con cháu hôm nay, nhất là trong bối cảnh đất nước đang đổi mới và hội nhập sâu rộng", ông Trịnh Hồng Anh chia sẻ.

Tiếp mạch hồi ức của những nhân chứng lịch sử trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám, ông Đặng Kim Sơn, con trai ông Đặng Kim Giang, nguyên Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ phụ trách Hà Đông, chia sẻ: "Bố tôi sinh năm 1910 tại xã Minh Hưng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Năm 1928, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, đến năm 1930 thì được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong quá trình hoạt động cách mạng, ông từng bị thực dân Pháp bắt, tù đày tại nhiều nhà lao từ Hỏa Lò cho đến Hòa Bình, Sơn La. Năm 1945, sau khi vượt ngục, ông tham gia chỉ đạo khởi nghĩa giành chính quyền tại tỉnh Hà Đông (nay thuộc Thủ đô Hà Nội) và trở thành Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Hà Đông, Phó Bí thư Tỉnh uỷ Hà Đông. Sau đó, ông tham gia quân đội, làm cấp phó cho đồng chí Trần Đăng Ninh, đến năm 1960 chuyển sang giữ chức Thứ trưởng Bộ Nông trường Quốc doanh".
Trong ký ức của mình, điều ông Đặng Kim Sơn nhớ nhất là tấm lòng yêu mến của cha mình dành cho cán bộ, chiến sĩ và người nông dân. Theo ông Sơn, bố ông sinh ra ở một làng quê nghèo, trong nạn đói những năm 1940-1945, cả làng có khoảng 1.000 người thì có đến hơn 300 người bị chết đói. Chính vì vậy, ông Đặng Kim Giang luôn đau đáu tìm cách để giúp đỡ người nông dân.
Theo ông Sơn, tình yêu của cha dành cho lĩnh vực nông nghiệp đã truyền cảm hứng cho cả cuộc đời mình. Ông xúc động kể rằng, thời đó, khi lựa chọn học đại học, ông Sơn đã hỏi bố về việc nên học vẽ hay học về nông nghiệp, ông Đặng Kim Giang dứt khoát trả lời: “nếu con học vẽ, con không thể làm nông nghiệp. Nhưng nếu con học nông nghiệp, con vẫn có thể học vẽ”, “đất nước mình là đất nông nghiệp, đối với người dân thì dĩ thực vi tiên con ạ”. Sau này, ông Sơn đã từng từ chối học bổng của đại học Harvard chỉ bởi vì trường “không đào tạo về nông nghiệp”.
"Cần phải biết ơn công lao của những người đi trước, gìn giữ truyền thống gia đình, lịch sử là tương lai, nếu tư tưởng đường lối và lý tưởng cách mạng đi vào cuộc sống mọi người thì nó sẽ thành công", ông Sơn khẳng định.

Nhà giáo Ưu tú Vũ Thế Khôi, con trai cố Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) Vũ Đình Hòe đã kể lại hành trình của cha ông, từ một trí thức “Tây học” trở thành người đứng đầu ngành giáo dục nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ông kể, cha mình xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, bố mẹ chỉ cho ăn học đến hết diplom (lớp 7), còn thì “gõ đầu trẻ” tự kiếm sống và tự nộp học phí theo học tú tài và cử nhân luật để – “ra làm quan” như cụ viết trong hồi ký.
Nhưng cái mộng làm quan tân cử nhân luật đành từ bỏ chỉ sau một lần ở dinh công sứ Hà Đông chứng kiến tận mắt ông “quan phụ mẫu” An Nam quần chùng áo dài sụp lạy “cụ lớn” Công sứ Tây-đó là cái nhục làm nô bộc cho “mẫu quốc” .
Bỏ lại phía sau cơ hội thăng tiến, ông Hoè trở lại nghề dạy học, tham gia nhóm trí thức “Tây học” ra báo Thanh Nghị vận động dân chủ, làm hội phó Hội truyền bá chữ Quốc ngữ. Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), thời cuộc chuyển biến mau chóng, “nhóm Thanh Nghị” trực tiếp nhảy vào lĩnh vực chính trị, công khai thảo luận trên trang báo những vấn đề lớn của dân tộc.
Bước ngoặt lớn đến vào mùa thu 1945, khi ông được đồng chí Lê Trọng Nghĩa giới thiệu lên Tân Trào dự Quốc dân Đại hội. Trở về sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông được Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao trọng trách Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục. Trong bối cảnh đất nước vừa giành độc lập, 95% dân số mù chữ, ông Vũ Đình Hòe khởi xướng phong trào “Bình dân học vụ”-một chiến dịch diệt giặc dốt chưa từng có.
Với khẩu hiệu “con dạy cha, chồng dạy vợ, em dạy anh chị, người biết chữ dạy người chưa biết; mở lớp khắp nơi nơi: đình chùa, hàng quán, ngay cổng chợ từ thành thị tới nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, ánh đèn học đêm rực sáng trong từng xóm nhỏ. Chỉ sau 5 tháng, miền bắc đã có gần 1 triệu người biết chữ; một năm sau, con số ấy lên tới 2 triệu người. Đây là kỳ tích giáo dục mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khen ngợi phong trào diệt giặc dốt, coi là “một trong những chiến công lớn của dân tộc trong thời bình đầu tiên”.

Chia sẻ thêm tại buổi tọa đàm, Phó GS,TS, Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) đã bày tỏ sự cảm ơn đến với Báo Nhân Dân khi tổ chức cuộc gặp mặt rất có ý nghĩa này đồng thời “cảm ơn tất cả các gia đình thân nhân các nhân chứng lịch sử của Cách mạng Tháng Tám để cùng ôn lại những kỷ niệm và nhắc nhở lại công lao của bố mẹ chúng ta.
“Cá nhân tôi thấm thía giá trị và ý nghĩa lịch sử này hơn bao giờ hết từ chính hoàn cảnh gia đình của mình khi bố tôi cũng là cựu cán bộ cách mạng tham gia khởi nghĩa tại Hải Phòng, đồng thời cũng quen biết một số gia đình lão thành cách mạng do xuất phát từ chính công việc lịch sử của chúng tôi nhất, là khi tôi đã đã công tác tại Viện Lịch sử quân sự mấy chục năm rồi mới về Viện Lịch sử của Học viện sau này”, Phó GS, TS, Mạnh Hà nói.
Theo Phó GS, TS, Nguyễn Mạnh Hà, đội ngũ lãnh đạo khởi nghĩa Hà Nội đa số ở độ tuổi 20 đã cho thấy sức trẻ đã làm nên thành công của khởi nghĩa Hà Nội. Lý giải nguyên nhân chiến thắng nữa là chúng ta đã lường trước được phản ứng của quân Nhật cộng với việc chúng ta đã tổ chức hành động cách mạng tốt, huy động rất đông nhân dân tham gia.
Cũng dịp này, Phó GS, TS, Nguyễn Mạnh Hà đề xuất, Báo Nhân Dân, cơ quan truyền thông lớn của Đảng và Nhà nước ta sẽ tích cực thông tin tuyên truyền về những gương mặt lão thành cách mạng, để những người đã không quản ngại hy sinh cả tính mạng của mình khi tham gia cách mạng, “để không ai bỏ lại phía sau nhưng cũng không để ai bị lãng quên”.
Nhân sự kiện này, Phó GS, TS, Nguyễn Mạnh Hà cũng chia sẻ câu chuyện Bác Hồ viết “Tuyên ngôn Độc lập”. Phó GS, TS, Nguyễn Mạnh Hà cho biết "khi hệ thống hóa lịch sử, chúng tôi hiểu được tại sao Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lại lựa chọn con đường ra đi tìm đường cứu nước một cách bài bản nhằm tìm hiểu về bản chất của các cuộc cách mạng trên thế giới thời điểm đó. Điều này cho thấy Người luôn ý thức và định hướng cao cho tất cả mọi hành động.
Sau khi Hà Nội khởi nghĩa thành công, về căn nhà ở 48 phố Hàng Ngang, Bác đã phác thảo và viết rất nhanh dự thảo Tuyên ngôn Độc lập… Chúng tôi còn được nghe một chi tiết là Bác đã đưa bản dự thảo cho các đồng chí đọc và yêu cầu tất cả sau khi đọc xong, nếu nhất trí thì ký vào bản dự thảo đó. “Nếu tìm ra bản gốc dự thảo có chữ ký của tất cả các đồng chí trong ban liên lạc thì đây sẽ là bảo vật quốc gia”, Phó GS, TS, Nguyễn Mạnh Hà khẳng định.
Ông Hà cho biết thêm, trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Bác Hồ đã trích dẫn Tuyên ngôn độc lập của Mỹ. Tuy nhiên, nguyên gốc trong bản tuyên ngôn của Mỹ ghi là “mọi người đàn ông sinh ra đều có quyền bình đẳng” nhưng khi trích dẫn trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng”. Điều này cho thấy tư tưởng của Bác không chỉ ở quyền con người mà còn mở rộng tới quyền của phụ nữ và chỉ 4 tháng sau Tuyên ngôn Độc lập, trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nước ta, phụ nữ Việt Nam đã được đi bầu cử.

Buổi gặp mặt khép lại, với nhiều lắng đọng nhiều tình cảm xúc động, thể hiện tình cảm của đại diện các gia đình nhân chứng lịch sử trực tiếp tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám dành cho Báo Nhân Dân. Những tặng phẩm của các gia đình tặng sẽ được Báo Nhân Dân tiếp tục lưu trữ, những câu chuyện chia sẻ hôm nay sẽ tiếp tục được lan toả để thế hệ trẻ ngày càng tự hào và có khát vọng hướng tới thành công trong tương lai.