Hiện giống tôm sú này được các hợp tác xã, doanh nghiệp thả nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao, mở ra cơ hội lớn hơn cho ngành tôm trong bối cảnh thị trường tôm thẻ trong nước đang phải cạnh tranh gay gắt với nhiều đối thủ.
Thời hoàng kim của tôm sú
Theo nhiều người nuôi tôm lâu năm ở vùng đất Mỹ Xuyên (nay thuộc các xã: Hòa Tú, Gia Hòa và Ngọc Đông, thành phố Cần Thơ), người dân bắt đầu nuôi tôm sú bằng con giống nhân tạo từ năm 1992; đến khoảng năm 1994-1995 nghề này bắt đầu phát triển mạnh.
Lúc đầu, người dân nuôi với mật độ rất thưa và không sử dụng bất kỳ loại thức ăn công nghiệp nào, nhưng chỉ sau khoảng ba tháng thả giống là tôm đã đạt cỡ 30 con/kg. Đến năm 1998, diện tích nuôi tôm sú gần như được mở rộng ra khắp các xã của huyện Mỹ Xuyên (tỉnh Sóc Trăng).
Giám đốc Hợp tác xã Nông Ngư 14/10 (xã Hòa Tú) Ngô Công Luận kể: Những năm đầu nuôi tôm sú bằng giống nhân tạo từ miền trung đưa vào hay từ Rạch Gốc (Cà Mau) đưa lên gần như ai cũng trúng mùa, lãi to vì tôm nuôi hầu như không hề có dịch bệnh gì.
Giai đoạn từ 1992-2000 được xem là thời kỳ hoàng kim nhất của con tôm sú, người nuôi lãi nhiều vì chi phí rất thấp, chủ yếu chỉ là tiền công đào ao, mua con giống, còn thức ăn có gì cho ăn nấy, như: Khoai mì, cơm dừa nạo hay nấu cơm trộn với cám vắt thành cục…
Trong khi đó, giá bán tôm rất cao. Năm 1998, giá tôm sú cỡ 30 con/kg khoảng 180.000-200.000 đồng/kg, giá vàng lúc đó chỉ có 500.000 đồng/chỉ, cho nên chỉ cần bán vài ký tôm là mua được chỉ vàng.
Nhắc đến thời hoàng kim của con tôm sú không thể không nhắc đến ông Sáu Cần (Đinh Thiên Cần, nguyên Bí thư Huyện ủy Long Phú, tỉnh Sóc Trăng cũ), người tiên phong đưa tôm sú về nuôi theo mô hình thâm canh tại vùng đất phèn trũng mang tên “cánh đồng năn”. Năm đó, ông thu được 13 tấn tôm, bán được hơn 2 tỷ đồng, trở thành vị tỷ phú đầu tiên của mô hình nuôi tôm sú thâm canh.
Cánh đồng năn không còn hoang hóa mà trở nên nhộn nhịp hơn với sự xuất hiện của những đại gia trong và ngoài tỉnh Sóc Trăng cũ cùng máy móc, phương tiện phục vụ nuôi tôm, chính thức mở ra giai đoạn mới của nghề nuôi tôm sú với mô hình thâm canh (mật độ 30-40 con/m2) trên khắp vùng nuôi ở Đồng bằng sông Cửu Long.Sự phát triển nhanh chóng của mô hình nuôi tôm sú thâm canh đã góp phần gia tăng sản lượng cùng kim ngạch xuất khẩu tôm của nước ta.
Theo báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), trong tổng số 850.000 tấn sản lượng tôm sú toàn cầu năm 2011, Việt Nam dẫn đầu với sản lượng lên đến 300.000 tấn. Giai đoạn 1992-2012, xuất khẩu tôm sú tăng bảy lần và đạt cao nhất vào năm 2010 với kim ngạch hơn 1,4 tỷ USD.
Tuy nhiên, cũng từ đây, những khó khăn về dịch bệnh, môi trường, sự suy thoái con giống… cũng ngày một nhiều hơn, thiệt hại tôm nuôi ngày một lớn hơn, người nuôi tôm bắt đầu lâm vào cảnh khó khăn.
Năm 2004, tôm nuôi xuất hiện dịch bệnh đỏ thân, đốm trắng, chủ yếu trên những ao nuôi không được quản lý tốt về môi trường. Năm 2005, do biến động thị trường cho nên đầu vụ tôm rớt giá mạnh xuống còn 110.000 đồng/kg, sau đó chỉ còn 70.000 đồng/kg đối với tôm sú loại 30 con/kg.
Thiệt hại tăng dần, khi có đến 24% số hộ nuôi (năm 2004) ở Đồng bằng sông Cửu Long bị thiệt hại và con số này trong năm 2005 là 36%, năm 2006 là 20%. Chưa dừng lại ở đó, đến năm 2010, bệnh EMS (Hội chứng tôm chết sớm do hoại tử gan tụy cấp) bắt đầu xuất hiện và bùng phát mạnh, gây thiệt hại lớn cho người nuôi tôm trên cả nước từ tháng 3/2011.
Các số liệu thống kê cho thấy, năm 2012, cả nước có hơn 100.000 ha tôm nuôi bị thiệt hại do bệnh EMS và tuy đã được khống chế từ năm 2015, nhưng dịch bệnh này vẫn còn hiện diện trên khắp các vùng.
Dấu ấn ngày trở lại
Sau hơn 10 năm buộc phải san sẻ một phần diện tích, sản lượng cho tôm thẻ, đến vụ nuôi năm 2025 này, con tôm sú đã chính thức đánh dấu sự trở lại của mình bằng những ưu điểm vượt trội như tăng trưởng nhanh, kháng một số bệnh nguy hiểm, có thể nuôi mật độ cao trong ao lót bạt đáy, dễ đạt kích cỡ lớn… và đặc biệt là mang đến cho người nuôi mức lợi nhuận cao.
Điểm nổi trội của những dòng tôm sú thế hệ mới từ các thương hiệu tên tuổi như Moana, Hawaii hay C.P là có tốc độ tăng trưởng nhanh, tỷ lệ phân đàn thấp và chống chịu tốt với bất lợi môi trường.
Việc gia tăng trở lại diện tích nuôi cũng phần nào cho thấy mô hình nuôi tôm sú đang dần đáp ứng được sự kỳ vọng của người nuôi tôm. Anh Nguyễn Văn Mực, ở xã Tây Yên, tỉnh An Giang chia sẻ: “Tôi nuôi tôm sú theo mô hình tôm-lúa, nhưng ở vụ nuôi năm 2025 này, dù mật độ thả nuôi vẫn như cũ nhưng lợi nhuận đã lên đến 150 triệu đồng/ha, tức cao gần gấp đôi so với sử dụng tôm giống cũ”.
Còn anh Huỳnh Khánh Lượng, người đang giữ kỷ lục nuôi tôm sú đạt kích cỡ 12 con/kg, ở xã Trần Đề, thành phố Cần Thơ cho biết: “Đầu năm đến giờ tôi đã nuôi được hai vụ tôm sú rất thành công trong ao lót bạt mà mấy vụ trước nuôi tôm thẻ hay bị bệnh EHP và phân trắng.
Vụ đầu tiên sau 120 ngày nuôi, tôi thu hoạch tôm đạt cỡ 24-26 con/kg, còn vụ gần đây sau 144 ngày, tôi thu hoạch tôm cỡ 12 con/kg mà không hề có bệnh gì”.
Cùng nuôi thử nghiệm thành công dòng tôm sú thế hệ mới, ông Võ Văn Phục, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Thủy sản sạch Việt Nam (Vinacleanfood) khẳng định: “Dòng tôm này có khả năng kháng tốt với EHP, chống chịu tốt biến động môi trường trong mùa mưa, nuôi được mật độ 30 con/m2, đạt kích cỡ dưới 20 con/kg trong ao bạt đáy cho nên rất phù hợp với vụ nghịch.
Tôm sú chỉ cần nuôi thành công với mật độ 30 con/m2 đã đủ để làm giàu. Riêng vấn đề bệnh EHP, nhiều hộ nuôi cho biết dòng tôm sú thế hệ mới này gần như miễn nhiễm”.
Hiện nay, mặc dù xu thế tiêu dùng thế giới chuyển sang sử dụng tôm thẻ nhiều hơn nhờ lợi thế giá rẻ so với tôm sú, nhưng nhu cầu tôm sú từ thị trường nội địa cũng như xuất khẩu (sang Trung Quốc và một số thị trường lớn khác) ngày càng cao, trong khi không còn nhiều nước nuôi cho nên nguồn cung cũng hạn chế.
Đây là lợi thế không nhỏ cho sự trở lại của con tôm sú thế hệ mới. Điều này cũng đồng nghĩa với cơ hội nâng cao hiệu quả từ nghề nuôi tôm sú của cư dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói chung sẽ ngày một lớn hơn.