Đây là một nội dung hệ trọng, thể hiện rõ tinh thần đổi mới tư duy lập pháp, chủ động tháo gỡ rào cản thể chế để khơi thông nguồn lực phát triển, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Xử lý những vấn đề phát sinh từ thực tiễn
Phát biểu tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh: Việc ban hành Nghị quyết lần này là để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quy định của pháp luật, từ đó mở đường cho phát triển kinh tế-xã hội, tạo đà cho đất nước bước vào thời kỳ phát triển nhanh và bền vững.

Tinh thần chung của các báo cáo và ý kiến của đại biểu qua thảo luận nhấn mạnh, nội dung cốt lõi của Nghị quyết là giao quyền chủ động cho Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong xử lý những vấn đề phát sinh từ thực tiễn, nhưng vẫn phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đề nghị Bộ Tư pháp với vai trò “cơ quan gác cổng” trong xây dựng, triển khai thi hành pháp luật cần rà soát kỹ lưỡng, chặt chẽ những vấn đề mà Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao Chính phủ quy định. Ủy ban Pháp luật và Tư pháp, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội phải xem xét kỹ lưỡng các nội dung trước khi trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Chủ tịch Quốc hội chỉ rõ: Muốn tháo gỡ thì phải xác định rõ khó khăn nằm ở đâu, do quy định nào, do ai gây ra. Phải làm rõ điều này trong dự thảo Nghị quyết để việc xử lý được chính xác, hiệu quả.
Theo số liệu báo cáo, hiện nay có 213 bộ luật và luật đang còn hiệu lực thi hành. Tại Kỳ họp thứ 7, Kỳ họp thứ 8, Kỳ họp bất thường lần thứ 9, tính cả các luật đã và sẽ được thông qua tại Kỳ họp thứ 9 thì có 67 luật được thông qua, chiếm tỷ lệ 31,4% với 213 luật. Vì vậy, cần rà soát lại các nghị định, thông tư ban hành đã đúng với quy định trong luật mới được ban hành hay chưa.
Chủ tịch Quốc hội cũng lưu ý, phải tăng cường tính minh bạch; cần bổ sung hay sửa đổi những vấn đề nào để tháo gỡ thì phải lấy ý kiến của doanh nghiệp, người dân một cách sâu sát. Cùng với đó, bảo đảm tính đồng bộ với hệ thống pháp luật.

Mặt khác, theo Chủ tịch Quốc hội: trong dự thảo Nghị quyết chưa đề cập các điều ước quốc tế, do đó, dự thảo Nghị quyết cần quy định rõ nguyên tắc “không trái với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”.
Việc tháo gỡ khó khăn cũng cần sắp xếp theo thứ tự ưu tiên vì các nội dung vướng mắc là rất nhiều nhưng thời gian thực hiện chỉ trong vòng 2 năm. Bên cạnh đó, Chủ tịch Quốc hội đề nghị, cần làm rõ vấn đề phân cấp, phân quyền, giám sát việc thực hiện trong xử lý khó khăn, vướng mắc
Trình bày Tờ trình của Chính phủ, Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, Nghị quyết này quy định về tiêu chí xác định, nguyên tắc, phương án, quy trình và trách nhiệm trong việc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Tiêu chí xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật luật kìm hãm, cản trở, gây ách tắc phát triển kinh tế-xã hội được xác định theo một trong các tiêu chí cụ thể: Quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật.
Quy định của văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, không hợp lý, không khả thi, gây khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật. Quy định của văn bản quy phạm pháp luật tạo gánh nặng chi phí tuân thủ; hạn chế việc đổi mới, sáng tạo, phát triển mô hình kinh doanh mới, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế.
Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025 tới hết ngày 28/2/2027.
Phân cấp, phân quyền rõ ràng, trách nhiệm cụ thể
Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội cho biết, Ủy ban và các cơ quan của Quốc hội tham dự phiên họp tán thành và đánh giá cao sáng kiến lập pháp của Chính phủ trong việc xây dựng, trình Quốc hội ban hành Nghị quyết quy định cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc có nguyên nhân do quy định của pháp luật với cơ sở chính trị, pháp lý, thực tiễn như được nêu trong Tờ trình của Chính phủ.

Nghị quyết nhằm hoàn thiện thể chế, pháp luật mở đường cho kiến tạo phát triển, khơi thông các nguồn lực, huy động mọi người dân, doanh nghiệp tham gia vào phát triển kinh tế-xã hội, tạo đà để đất nước phát triển bứt phá, bước vào kỷ nguyên mới, thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Qua thảo luận, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội đã khẩn trương phối hợp chặt chẽ trong suốt quá trình nghiên cứu với cơ quan chủ trì soạn thảo và khẩn trương tổ chức thẩm tra dự thảo Nghị quyết, bảo đảm chất lượng, các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, hồ sơ dự thảo Nghị quyết đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét thông qua theo quy trình đặc biệt tại Kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XV.
Các đại biểu nhất trí cơ bản phạm vi điều chỉnh Nghị quyết; theo đó Nghị quyết quy định về tiêu chí xác định khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật; tán thành về nguyên tắc, phương án, quy trình phân công, trách nhiệm trong việc xử lý khó khăn, vướng mắc.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội phối hợp với các Ủy ban Quốc hội rà soát để thống nhất về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc trong một số dự thảo luật trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp này để bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán.
Cơ bản tán thành với quy định tiêu chí xác định nguyên tắc xử lý khó khăn, vướng mắc, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị bổ sung nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất của hệ thống pháp luật; không trái với các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Về phương án xử lý khó khăn, vướng mắc, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành quy định theo hướng có phân công, phân cấp, rạch ròi. Trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời để xử lý khó khăn, vướng mắc thì Chính phủ ban hành Nghị quyết để điều chỉnh một số quy định có liên quan trong các luật, Nghị quyết do Chính phủ trình.

Các văn bản do các cơ quan khác trình thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết để điều chỉnh. Riêng đối với nội dung Hiến pháp quy định bắt buộc phải điều chỉnh bằng luật, Chính phủ ban hành văn bản để điều chỉnh thì phải xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Về điều khoản thi hành, các đại biểu tán thành Nghị quyết có hiệu lực ngay từ khi Quốc hội thông qua và thực hiện hết đến ngày 28/2/2027 và xác định rõ năm 2025 cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật. Đến ngày 28/2/2027 hoàn thành việc sửa đổi các luật, Nghị quyết có liên quan.