Phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3/9/1945. (Ảnh Tư liệu)
Phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3/9/1945. (Ảnh Tư liệu)

Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9

Tầm nhìn chiến lược và thời cơ “ngàn năm có một”

“Khi biết tin phát-xít Nhật đã sụp đổ, Hồ Chí Minh đã hành động một cách kiên quyết và nhanh chóng, vì ông phải bảo đảm chiếm được một chỗ đứng chân vững chắc ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. 

Ông Hồ biết rằng ông phải làm cho mọi người thấy rõ được cả tính chất hợp pháp lẫn sức mạnh để giữ được vai trò lãnh đạo và đà phát triển của phong trào” [1]. Đó là nhận xét của L.A.Patti - một sĩ quan tình báo Mỹ có mặt ở Hà Nội trong những ngày Cách mạng Tháng Tám sục sôi. L.A. Patti muốn nói đến tầm nhìn chiến lược và sự sáng tạo độc đáo của Lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và tính hợp pháp của công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do bằng việc tổ chức Quốc dân Đại hội Tân Trào và lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam - có thể coi là tiền thân của chính phủ nhân dân của nước Việt Nam mới.

Bước ngoặt có ý nghĩa quyết định

Mùa hè 1945, khi cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai đang đi vào hồi kết thì ở Việt Nam, công cuộc giải phóng dân tộc cũng đang chuyển sang bước ngoặt có ý nghĩa quyết định. Từ tháng 5/1945, Lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng “Đại bản doanh” của cách mạng Việt Nam ở Cao Bằng đã được chuyển về Tuyên Quang để tiện liên lạc với bộ phận của Trung ương ở miền xuôi và chỉ đạo phong trào trong cả nước. Những ngày cuối tháng 7 - đầu tháng 8/1945, tin tức về tình hình thế giới, đặc biệt là việc Hồng quân Liên Xô mở mặt trận Viễn Đông tiến công đạo quân Quan Đông của Nhật Bản liên tục dội về căn cứ địa Việt Bắc. Lãnh tụ Hồ Chí Minh nhận thấy thời cơ “ngàn năm có một” đã đến, tình thế đòi hỏi phải hết sức khẩn trương chớp thời cơ giành chính quyền trong cả nước. Người đặc biệt lưu tâm đến hai việc cấp bách cần làm ngay, đó là phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa và xác lập địa vị làm chủ hợp pháp nước nhà ngay sau khi quân Nhật đầu hàng Đồng Minh và quân Đồng Minh thì chưa kịp kéo vào Đông Dương. Cần phải tạo sự phối hợp nhịp nhàng giữa cao trào cách mạng trong nước đang dâng cao với cục diện tình hình thế giới đang biến động từng ngày, từng giờ.

Người chỉ thị cho các đồng chí trong Thường vụ Trung ương Đảng phải xúc tiến ngay Hội nghị Toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân. Người nhắc đi, nhắc lại rằng: Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ thời cơ. Cần phải họp ngay và họp cũng không nên kéo dài.

Đêm 12/8, nhận được tin Nhật Bản chấp nhận mở cuộc đàm phán hòa bình với Đồng Minh, nhận thấy thời cơ Tổng khởi nghĩa đã tới, mặc dù các đại biểu vẫn chưa tề tựu đông đủ theo thành phần triệu tập, Lãnh tụ Hồ Chí Minh vẫn đề nghị Thường vụ Trung ương cho họp ngay Hội nghị Toàn quốc của Đảng.

Sáng 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc ở Tân Trào. Mặc dù vừa trải qua cơn bạo bệnh, sức khỏe còn yếu không thể tham dự ngay từ đầu nhưng

Hồ Chí Minh vẫn gượng đến dự phiên bế mạc. Hội nghị quyết định phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước và quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp phụ trách. Nửa đêm 14/8, Ủy ban khởi nghĩa ra bản Quân lệnh số 1. Ngày 15/8, được tin Nhật Hoàng đọc chiếu chỉ chấp nhận bản Tuyên bố Pot-xđam ngày 26/7 của Đồng Minh, Hồ Chí Minh đã đề nghị Hội nghị kết thúc sớm để các đại biểu còn kịp về các địa phương chỉ đạo khởi nghĩa.

Hội nghị Toàn quốc của Đảng vừa bế mạc thì ngày 16/8, Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh đã tổ chức khai mạc ngay Đại hội Quốc dân tại Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương của Đảng và Tổng bộ Việt Minh về phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước; đồng thời thông qua các chính sách đối nội và đối ngoại, trong đó đặc biệt nhấn mạnh hai vấn đề cốt tử, đó là phải giành lấy chính quyền, xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập và thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch.

Việc thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam có tính chất như một Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới ra đời ngay “đêm trước” của Tổng khởi nghĩa, càng cho thấy tư duy sắc sảo và tầm nhìn chiến lược của Lãnh tụ Hồ Chí Minh về việc khởi đầu xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc. Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam có nhiệm vụ thay mặt toàn thể quốc dân giải quyết mọi công việc đối nội, đối ngoại của đất nước trong bối cảnh thù trong, giặc ngoài chống phá quyết liệt. Qua Đài “Con Nai”, nhân danh Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam của Mặt trận Việt Minh, Hồ Chí Minh “Yêu cầu nhà cầm quyền Hoa Kỳ thông báo cho Liên hợp quốc rằng: Chúng tôi đã đứng về phía Liên hợp quốc chống lại bọn Nhật. Nay bọn Nhật đã đầu hàng. Chúng tôi yêu cầu Liên hợp quốc thực hiện lời hứa long trọng của mình là tất cả các dân tộc đều được hưởng dân chủ và độc lập. Nếu Liên hợp quốc... không thực hiện cho Đông Dương được hoàn toàn độc lập thì chúng tôi sẽ cương quyết chiến đấu cho đến khi giành được nền độc lập hoàn toàn” [2]. Cũng thông qua đài “Con Nai”, nhân danh Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam, ngày 18/8, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thông điệp cho các nước Đồng Minh và Chính phủ Pháp, khẳng định rõ lập trường của Việt Minh và nguyện vọng thiết tha cháy bỏng của nhân dân Việt Nam.

Thời cơ Tổng khởi nghĩa chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn, trong vòng hai tuần lễ, nhưng đó là “thời cơ vàng” mà Đảng Cộng sản Đông Dương, Tổng bộ Việt Minh và Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã kịp thời chớp lấy, lãnh đạo toàn dân dốc toàn lực, tung ra đòn quyết định giành chính quyền trong cả nước một cách nhanh chóng. Ngày 22/8, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng “đại bản doanh” của Người rời Tân Trào về Hà Nội. Trước lúc chia tay đồng bào tại đây, Người căn dặn các đồng chí Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Kháng và Hoàng Văn Thái: “Bây giờ ta có chính quyền, chắc các cô, các chú cũng muốn về Hà Nội. Nhưng chưa được đâu! Lênin nói: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Bởi vậy, một số các cô, các chú còn ở lại địa phương đây, giúp đồng bào tổ chức cuộc sống sao cho tươi đẹp hơn, ấm no, văn minh hơn... Biết đâu, chúng ta còn trở lên đây nhờ cậy đồng bào lần nữa...” [3].

Sách lược đại đoàn kết và tuyên bố lập hiến mang tầm thời đại

Ngày 26/8, một ngày sau khi vừa đặt chân về Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Thường vụ Trung ương họp bàn những việc cần làm ngay trước khi Quân Tưởng vào Đông Dương tước khí giới quân Nhật, trong đó có việc sớm công bố danh sách Chính phủ lâm thời, chuẩn bị công bố Tuyên ngôn độc lập và tổ chức mít-tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ ra mắt quốc dân. Ngày 27/8/1945, tại phiên họp của Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị thi hành chính sách đại đoàn kết rộng rãi, thành lập Chính phủ thống nhất quốc gia bao gồm các đảng phái yêu nước và những nhân sĩ, trí thức lớn không đảng phái có tầm ảnh hưởng trong xã hội. Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Nhiều thành viên của Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam đã tự nguyện rút lui không tham gia Chính phủ lâm thời để nhường chỗ cho những người khác tuy không thuộc đảng, phái nhưng có đủ tâm, tài.

Thành phần Chính phủ lâm thời gồm có: Hồ Chí Minh: Chủ tịch kiêm Ngoại giao; Võ Nguyên Giáp: Bộ trưởng Bộ Nội vụ; Chu Văn Tấn: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Trần Huy Liệu: Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền; Dương Đức Hiền: Bộ trưởng Bộ Thanh niên; Nguyễn Mạnh Hà: Bộ trưởng Bộ Kinh tế; Nguyễn Văn Tố: Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội; Vũ Trọng Khánh: Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Đào Trọng Kim: Bộ trưởng Bộ Giao thông công chính; Lê Văn Hiến: Bộ trưởng Bộ Lao động; Phạm Ngọc Thạch: Bộ trưởng Bộ Y tế; Phạm Văn Đồng: Bộ trưởng Bộ Tài chính; Vũ Đình Hòe: Bộ trưởng Bộ Giáo dục; Cù Huy Cận: Bộ trưởng không bộ; Nguyễn Văn Xuân: Bộ trưởng không bộ [4].

Nhìn vào thành phần tham gia Chính phủ lâm thời chúng ta càng thấy rõ sự tỏa sáng của sách lược Đại đoàn kết toàn dân tộc cũng như chính sách trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngay sau khi thành lập Chính phủ lâm thời, ngày 30/8, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho mời một số cán bộ, nhân sĩ, trí thức đóng góp ý kiến bản dự thảo Tuyên ngôn độc lập do Người soạn thảo trước khi công bố rộng rãi.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào Thủ đô và sự chúng kiến của một số người nước ngoài trong Đội “Con Nai”, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, long trọng tuyên bố với toàn dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công-nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời. Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử đặc biệt về tư tưởng và pháp quyền Việt Nam. Về mặt tư tưởng, văn kiện này hàm chứa một cách khái quát những nội dung cốt lõi của hệ tư tưởng mang tầm vóc thời đại của Hồ Chí Minh về con đường giải phóng và phát triển cách mạng Việt Nam. Về mặt pháp quyền, đó là một văn bản pháp lý quan trọng khẳng định quyền dân tộc thiêng liêng bất khả xâm phạm của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - một nhà nước công-nông ra đời bằng kết quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại.

Chỉ một ngày sau khi tuyên bố khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 3/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị soạn thảo Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Người coi đây là một trong những nhiệm vụ cấp bách hàng đầu để củng cố, tăng cường sức mạnh nhà nước. Người nhấn mạnh: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống...” [5]. Đề nghị này của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem như một tuyên bố lập hiến mang tầm thời đại.

Không nhiều người biết rằng phải một tuần sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, ngày 9/9, phái đoàn tiền trạm của Trung Hoa Dân quốc do Tiêu Văn dẫn đầu mới tới Hà Nội. Tiếp sau đó, ngày 14/9 “bộ sậu” của Lư Hán cũng có mặt và tới ngày 28/9/1945, lễ đầu hàng của Quân đội Nhật Bản mới chính thức diễn ra tại Hà Nội. Khi lực lượng Đồng Minh đặt chân đến Việt Nam thì nước Việt Nam đã có chủ nhân mới. Với chính quyền mới giành được, nhân dân Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý, chính trị, đứng trên cương vị “chủ nhân” ngẩng cao đầu tiếp và nói chuyện với quân đội các nước vào giải giáp quân Nhật theo sự phân công của các nước Đồng Minh chống phát-xít. Nhắc lại điều này càng thấy và hiểu rõ hơn tầm nhìn chiến lược cũng như vai trò to lớn của Lãnh tụ Hồ Chí Minh trong những ngày diễn ra cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại ■

[1] L.A. Patti: Tại sao Việt Nam. Nxb Đà Nẵng. 1995. Tr.146.

[2] Từ hang Cốc Bó đến Dinh Độc lập. Nxb QĐND.H.2010. Tr. 124.

[3] Từ hang Cốc Bó đến Dinh Độc lập. Sđd. Tr. 128.

[4] Việt Nam Dân quốc công báo. Số 1/1945.

[5] Hồ Chí Minh toàn tập. Nxb CTQG.H.2000. T.4. Tr.8.

Xem thêm