Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trần Duy Đông thăm Nhà máy Meiko Hòa Bình, Khu công nghiệp Bờ trái sông Đà.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trần Duy Đông thăm Nhà máy Meiko Hòa Bình, Khu công nghiệp Bờ trái sông Đà.

Phát triển khu công nghiệp thực chất, hiệu quả

Tỉnh Phú Thọ đặt ra yêu cầu phát triển các khu công nghiệp theo hướng thực chất, hiệu quả, gắn với tăng trưởng xanh và bền vững, coi đây là bước đột phá trong cơ cấu lại nền kinh tế trong điều kiện diện tích tự nhiên, quy mô dân số đều tăng sau sáp nhập.

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, TĂNG SỨC CẠNH TRANH

Các khu công nghiệp (KCN) là động lực then chốt cho tăng trưởng, là nguồn thu ngân sách chủ yếu của tỉnh Phú Thọ. Việc phát triển các KCN không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội địa phương, mà còn là giải pháp quan trọng để giải quyết áp lực về hạ tầng công nghiệp - điều kiện then chốt để thu hút đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Nhận thức tầm quan trọng của các KCN, sau hợp nhất tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trần Duy Đông trực tiếp phụ trách lĩnh vực KCN, thường xuyên đôn đốc, chỉ đạo tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nhất là trong công tác giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng và xúc tiến đầu tư.

Ban Quản lý các KCN tỉnh Phú Thọ được kiện toàn theo mô hình mới, gồm trụ sở chính đặt tại phường Vĩnh Phúc và các văn phòng tại phường Việt Trì và Hòa Bình. Mô hình này giúp hỗ trợ doanh nghiệp tại chỗ, giảm chi phí hành chính và tăng tính linh hoạt trong ứng phó với các tình huống phát sinh.

Nhờ nỗ lực to lớn, đến tháng 8/2025, tỉnh Phú Thọ đã thành lập 28 KCN, trong đó 17 KCN đi vào hoạt động, 5 KCN đang xây dựng và 6 KCN đang trong quá trình bồi thường giải phóng mặt bằng. Một số KCN tiêu biểu như Thăng Long Vĩnh Phúc, Khai Quang, Bá Thiện II, Bình Xuyên, Phú Hà, Trung Hà, Lương Sơn, Yên Quang đạt tỷ lệ lấp đầy cao, thu hút nhiều tập đoàn lớn, đóng góp ngân sách chính cho tỉnh.

8 tháng đầu năm 2025, các KCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã thu hút 26 dự án FDI mới với tổng vốn đăng ký 103,72 triệu USD, đồng thời điều chỉnh tăng vốn cho 45 lượt dự án với số vốn tăng 462,03 triệu USD. Tổng vốn đăng ký FDI toàn tỉnh là hơn 9,7 tỷ USD. Tỉnh có 818 dự án thứ cấp còn hiệu lực, trong đó 507 dự án FDI và 311 dự án trong nước.

Các ngành nghề chính trong KCN là điện, điện tử, máy tính với 235 dự án chiếm 46,4% số dự án FDI và 57,6% vốn đăng ký; sản xuất ô-tô, xe máy, phụ tùng có 54 dự án chiếm 10,7% dự án FDI; hàng may mặc có 31 dự án chiếm 6,1%. Ở lĩnh vực đầu tư trong nước, nổi bật là sản xuất vật liệu xây dựng với 65 dự án, tổng vốn hơn 17.000 tỷ đồng, chiếm 32,2% vốn đăng ký; sau đó là sản xuất phụ tùng ô-tô, xe máy có 34 dự án với hơn 11.000 tỷ đồng. Những con số này cho thấy cơ cấu công nghiệp đang dần định hình, tập trung vào các ngành có giá trị gia tăng cao.

Tuy nhiên, tỷ lệ lấp đầy KCN toàn tỉnh mới đạt 44,3%. Công tác giải phóng mặt bằng còn chậm, hơn 2.185 ha đất chưa được giao cho nhà đầu tư. Nhiều dự án đã nhận đất nhưng chưa triển khai hạ tầng, chậm hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải, chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính. Quy hoạch xây dựng một số KCN chưa có nhà ở công nhân, các công trình văn hóa, xã hội phục vụ người lao động. Các dự án trong KCN chủ yếu có quy mô nhỏ và vừa, sử dụng công nghệ cũ. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng vẫn là trở ngại lớn.

Ông Trịnh Văn Quang, đại diện Chủ đầu tư Khu công nghiệp Bá Thiện II bày tỏ: Sau đợt tinh gọn bộ máy, công việc bị chững lại. Trung ương cần sớm có quy định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, nhiệm vụ cho cấp tỉnh và cấp xã thì công chức tỉnh, xã mới dám làm, công tác giải phóng mặt bằng mới được triển khai hiệu quả.

Nhiều chủ đầu tư hạ tầng KCN phản ánh khó khăn lớn nhất là thiếu nguồn đất san lấp. Nhu cầu đất san nền tại các KCN lên tới hàng chục triệu mét khối, trong khi nguồn cung hạn hẹp. Chi phí vật liệu tăng quá nhanh, nếu không có giải pháp căn cơ thì việc hoàn thiện hạ tầng sẽ bị đình trệ, ảnh hưởng trực tiếp đến thu hút đầu tư. Đây là vấn đề tỉnh cần sớm tháo gỡ để giữ vững sức hấp dẫn của các KCN Phú Thọ.

TẦM NHÌN PHÁT TRIỂN ĐẾN NĂM 2030

Trong bối cảnh sáp nhập, tỉnh Phú Thọ đang điều chỉnh chính sách phát triển KCN theo hướng coi trọng chất lượng thay vì số lượng. Những thay đổi này xuất phát từ nhiều lý do như yêu cầu từ các hiệp định thương mại thế hệ mới buộc doanh nghiệp tuân thủ tiêu chuẩn môi trường, lao động quốc tế. Áp lực cạnh tranh gay gắt trong thu hút FDI đòi hỏi phải tạo khác biệt bằng hạ tầng đồng bộ, cơ chế thông thoáng, môi trường đầu tư ổn định.

Xu thế phát triển xanh và kinh tế tuần hoàn đặt ra trách nhiệm lớn hơn trong bảo vệ môi trường. Vì vậy, tỉnh Phú Thọ xác định ưu tiên phát triển các KCN sinh thái, công nghệ cao, thu hút có chọn lọc các tập đoàn đa quốc gia, công nghiệp hỗ trợ, chế tạo, bán dẫn, dược phẩm; đồng thời chú trọng bảo đảm đời sống lâu dài cho công nhân với hệ thống nhà ở, trường học, y tế đặt trong hoặc gần các KCN.

Định hướng đến năm 2030, tỉnh Phú Thọ phấn đấu hình thành 57 KCN và có ít nhất một KCN công nghệ cao và một KCN sinh thái. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trần Duy Đông khẳng định: “Phát triển KCN của Phú Thọ phải thực chất, hiệu quả cao, kiên quyết xử lý dự án chậm tiến độ, tập trung thu hút các nhà đầu tư chiến lược, gắn phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống nhân dân”.

Tỉnh đặt mục tiêu trở thành trung tâm công nghiệp hiện đại của cả nước, tập trung phát triển các ngành công nghệ cao, cơ khí chính xác, điện tử, ô-tô và công nghiệp hỗ trợ. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tỉnh kỳ vọng đến năm 2030, tỷ lệ lấp đầy KCN sẽ đạt trên 70%, tạo bước chuyển căn bản trong cơ cấu kinh tế.

Việc phát triển các KCN cũng phải đạt được nhiều mục tiêu, bao gồm thu hút vốn đầu tư lớn, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi không gian phát triển, thúc đẩy liên kết ngành và liên kết vùng, nâng cao giá trị xuất khẩu, đồng thời thúc đẩy quan hệ ngoại giao, kinh tế, thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và các đối tác.

Để tháo gỡ khó khăn, tỉnh Phú Thọ đang quyết liệt chỉ đạo công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, xây dựng khu tái định cư, di dời nghĩa trang, bảo đảm quỹ đất sạch bàn giao cho nhà đầu tư. Phú Thọ cũng đẩy mạnh hỗ trợ chủ đầu tư xây dựng hạ tầng, đặc biệt là hệ thống xử lý nước thải, điện, nước, giao thông kết nối; thực hiện chính sách ưu đãi về đất đai, nguồn nhân lực, nhà ở công nhân để thu hút và giữ chân các nhà đầu tư chiến lược. Đồng thời, tỉnh kiến nghị Trung ương bổ sung chỉ tiêu đất công nghiệp để đáp ứng nhu cầu phát triển lâu dài.

Trưởng Ban Quản lý các Khu công nghiệp tỉnh Hoàng Long Biên nhận định, để phát triển KCN theo hướng thực chất, hiệu quả cao, tỉnh sẽ tập trung vào các giải pháp đồng bộ như: rà soát, thu hồi đất với các dự án chậm triển khai do chủ quan; hoàn thiện hạ tầng logistics, gắn KCN với các tuyến cao tốc, đường sắt và cảng hàng không. Tỉnh sẽ hỗ trợ doanh nghiệp trong nước tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu; phát triển đồng bộ dịch vụ xã hội, nâng cao đời sống công nhân.

Bên cạnh đó, tỉnh Phú Thọ cần sớm hợp nhất chính sách phát triển các khu công nghiệp, chính sách thu hút đầu tư của ba tỉnh trước sáp nhập, số hóa thông tin các KCN về quy hoạch, đất đai, tiến độ, thủ tục cấp phép, giá thuê, tỷ lệ lấp đầy, các cơ chế, chính sách. Phát triển các KCN theo hướng thực chất, hiệu quả cao, hài hòa lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp và người dân sẽ là con đường tất yếu để Phú Thọ vươn lên mạnh mẽ trong giai đoạn phát triển mới.

Xem thêm