TIỀM NĂNG LỚN
Theo thống kê của Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), trong năm 2024 diện tích cây chanh leo cả nước là 10.400 ha, diện tích cho thu hoạch là 8.600 ha, năng suất đạt 189,1 tạ/ha, sản lượng đạt 163.400 tấn. Trong đó tập trung nhiều nhất là vùng Tây Nguyên với diện tích chanh leo 9.000 ha, diện tích cho thu hoạch 7.500 ha, năng suất đạt 201,2 tạ/ha, sản lượng đạt 151.300 tấn, chanh leo được đưa vào nhóm 4 loại trái cây xuất khẩu chủ lực của các tỉnh Tây Nguyên.
Cây chanh leo cho thu nhập bình quân từ 250-300 triệu đồng/ha/năm, cao hơn nhiều lần so với một số cây trồng khác nên mang lại thu nhập cao cho người trồng. Đặc biệt, cây chanh leo trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên đã được xây dựng mã số chỉ dẫn địa lý và được thị trường Trung Quốc chấp thuận nhập khẩu chính ngạch, mở ra cơ hội và hướng đi bền vững cho loại nông sản này.
Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia Hoàng Văn Hồng cho biết, Gia Lai là địa phương đứng đầu cả nước về diện tích trồng chanh leo với hơn 5.450 ha, đã được cấp 48 mã số vùng trồng tham gia thị trường xuất khẩu chính ngạch. Tỉnh Gia Lai đang quy hoạch diện tích lên 10.000 ha, đẩy mạnh kiểm soát chất lượng giống, vật tư đầu vào, ứng dụng khoa học-kỹ thuật, khuyến khích sản xuất theo các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và hữu cơ… Đồng thời phối hợp với các địa phương, doanh nghiệp, hợp tác xã xây dựng mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói và thu hút các doanh nghiệp đầu tư nhà máy chế biến để mở rộng thị trường xuất khẩu, nhằm đưa chanh leo trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Sau sáp nhập, tỉnh Lâm Đồng có diện tích trồng chanh leo lớn thứ hai cả nước với khoảng 1.500 ha. Tiếp đến là tỉnh Đắk Lắk có diện tích trồng chanh leo hiện nay khoảng 1.055 ha bao gồm cả trồng thuần và trồng xen. Những năm qua, các doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân các tỉnh Tây Nguyên đã chú trọng đầu tư nâng cao giá trị cây chanh leo bằng việc tổ chức liên kết sản xuất, chuẩn hóa vùng nguyên liệu và áp dụng công nghệ chế biến sâu. Ông Nguyễn Văn Thái Bình, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp công nghệ cao Xanh Cao Nguyên, tỉnh Đắk Lắk cho biết, khi trồng chanh leo, điều quan trọng đầu tiên là phải xác định rõ thị trường đầu ra. Do mỗi thị trường có một yêu cầu riêng như EU cần chứng chỉ, logo và mã số vùng trồng; Nga chuộng quả to, mẫu mã đẹp, ưu tiên đường đi ngắn, chi phí hợp lý; Mỹ và Australia đòi hỏi vừa có hình thức đẹp và bảo đảm chiếu xạ… Vì vậy, để sản xuất bền vững, người trồng cần định hướng ngay từ đầu thị trường tiêu thụ, từ đó xây dựng vùng trồng và quy trình phù hợp.
Với sự tăng trưởng cao, Việt Nam đã và đang trở thành một trong 10 nước sản xuất, xuất khẩu chanh leo chiếm tỷ trọng lớn trong ngành hàng trên thế giới. Hiện chanh leo Việt cũng đã xuất khẩu tới các thị trường có yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng, kiểm dịch an toàn thực phẩm như: Australia, Pháp, Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Thụy Sĩ và từ tháng 7/2022 xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc. Với 80% sản lượng chanh leo dành cho thị trường quốc tế và kim ngạch tăng trưởng ổn định nên nông dân, doanh nghiệp hết sức phấn khởi, mở rộng diện tích và nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu để tăng thu nhập.
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Cây chanh leo đang được xem là cây trồng có giá trị kinh tế cao, giàu tiềm năng xuất khẩu và đóng góp đáng kể cho công cuộc chuyển đổi cơ cấu cây trồng tại nhiều vùng sinh thái của Việt Nam, đặc biệt là vùng Tây Nguyên. Tuy nhiên, tại buổi tọa đàm “Giải pháp phát triển chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ chanh leo bền vững” do Trung tâm Khuyến nông quốc gia tổ chức mới đây tại phường Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk cho thấy, còn nhiều ý kiến cho rằng cây chanh leo vẫn đang đối diện với không ít khó khăn, thách thức, như: quy mô sản xuất nhỏ lẻ, khó kiểm soát chất lượng, nhất là các vùng trồng tự phát, làm ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng. Biến đổi khí hậu và dịch hại ngày càng phức tạp, trong khi chi phí vật tư đầu vào tăng cao, làm giảm sức cạnh tranh. Liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp và người dân chưa bền vững, chưa có nhiều doanh nghiệp tham gia vào chuỗi liên kết để đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu sang các thị trường lớn,...
Trong khi đó, các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản lại yêu cầu cao về chất lượng, an toàn thực phẩm. Tiến sĩ Phan Việt Hà, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Khoa học kỹ thuật nông-lâm nghiệp Tây Nguyên cho biết: Hiện nay, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch chanh leo vẫn ở mức cao, dao động từ 20 đến 30%, do khâu thu hoạch chưa đồng bộ, thiếu công nghệ bảo quản và chế biến hiện đại. Phần lớn sản phẩm của Việt Nam vẫn ở dạng tươi, xuất khẩu thô, giá trị gia tăng thấp và chịu rủi ro lớn khi thị trường biến động. Việc phát triển công nghệ chế biến sâu còn manh mún, quy mô nhỏ lẻ, thiếu tính kết nối với vùng nguyên liệu và chuỗi giá trị toàn cầu. Vì vậy, việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp kỹ thuật nhằm tối ưu hóa công nghệ chế biến sau thu hoạch chanh leo trở thành nhiệm vụ mang tính chiến lược để giảm tổn thất, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm, tạo sức cạnh tranh của chanh leo Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu.
Để phát triển bền vững cây chanh leo trong thời gian tới, theo Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia Hoàng Văn Hồng, trước hết cần ưu tiên nghiên cứu, sản xuất và cung ứng giống chanh leo ghép được công nhận có năng suất, chất lượng cao, khả năng kháng bệnh tốt phù hợp với từng khu vực. Cần xây dựng quy trình kỹ thuật phù hợp từng vùng sinh thái, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quản lý vùng trồng, nhật ký điện tử và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Trong đó, công tác khuyến nông giữ vai trò hạt nhân trong chuyển giao kỹ thuật, xây dựng mô hình trình diễn, đào tạo nông dân và kết nối thị trường. Tăng cường liên kết sản xuất, tiêu thụ và chế biến sâu, trong đó thúc đẩy mô hình liên kết 3-4 nhà với hợp đồng rõ ràng, gắn doanh nghiệp chế biến với vùng nguyên liệu đạt chuẩn. Doanh nghiệp cần được hỗ trợ tiếp cận vùng nguyên liệu, đầu tư công nghệ chế biến sâu sản phẩm và xây dựng thương hiệu chanh leo vùng miền. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng xuất khẩu chính ngạch vào các thị trường tiềm năng như Mỹ, Australia, Nhật Bản, EU... Về phía Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần hoàn thiện chính sách và cơ chế hỗ trợ sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, cấp mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc và xây dựng chuỗi liên kết. Củng cố, duy trì và phát triển thêm mã số vùng trồng, mã cơ sở đóng gói sản phẩm chanh leo ở những địa phương phù hợp như khu vực Tây Nguyên và Trung du miền núi phía bắc. Đơn giản hóa quy trình thủ tục chứng nhận VietGAP, đồng thời có chính sách hỗ trợ chi phí chứng nhận, bảo hiểm nông nghiệp và tín dụng dài hạn cho các hộ trồng chanh leo…