Phát triển các mô hình nông nghiệp góp phần nâng cao thu nhập, mức sống cho nhân dân miền núi Quảng Ngãi.
Phát triển các mô hình nông nghiệp góp phần nâng cao thu nhập, mức sống cho nhân dân miền núi Quảng Ngãi.

Chăm lo đời sống đồng bào dân tộc thiểu số

Cùng với chương trình, giải pháp phát triển kinh tế-xã hội, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025- 2030 đặc biệt chú trọng việc chăm lo đời sống đồng bào dân tộc thiểu số. Nhiệm kỳ mới được kỳ vọng sẽ tiếp tục tạo dựng nền tảng để miền núi, vùng sâu, vùng xa đổi mới, phát triển toàn diện.

KẾ THỪA NHỮNG THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

Sau sáp nhập, tỉnh Quảng Ngãi có diện tích hơn 14.800 km2, dân số 2,1 triệu người; trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số hơn 133.600 hộ với 540.000 người, chiếm 25,5% tổng dân số toàn tỉnh. Tỉnh có 68 xã, phường, 43 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Với thành phần dân tộc đa dạng như Xơ Đăng, Ba Na, Gia Rai, Giẻ Triêng, Hrê, Co, Brâu, Rơ Măm…, tỉnh Quảng Ngãi hội tụ nền văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc, gắn liền với phong tục, tập quán đặc trưng của vùng Trường Sơn-Tây Nguyên.

Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nỗ lực của đồng bào dân tộc thiểu số, những năm qua, kinh tế-xã hội của tỉnh Quảng Ngãi không ngừng phát triển.

Giai đoạn 2021-2025, Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được bố trí hơn 5.600 tỷ đồng, đến nay giải ngân hơn 3.100 tỷ đồng. Theo kế hoạch, đến hết năm 2025, tỷ lệ hộ đồng bào dân tộc thiểu số có đất ở, đất sản xuất đạt 98,8%; tỷ lệ hộ nghèo giảm 2,17%/ năm, trong đó miền núi giảm 4,64%/năm.

Những năm gần đây, chính quyền cơ sở đẩy mạnh các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, chính sách đối với người có uy tín. Các đề án về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm an ninh trật tự; tăng cường chuyển đổi số lĩnh vực công tác dân tộc và một số chương trình, chính sách dân tộc đặc thù của địa phương đã được triển khai đến tận các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Sau nhiều năm kiên trì vượt khó nơi vùng núi Ngọc Linh, chị Lương Thị Mỹ Huệ, Giám đốc Công ty TNHH thảo dược Tây Nguyên, đã tìm thấy con đường phát triển bền vững cho riêng mình.

Nhận thấy tiềm năng to lớn từ sâm và các loại dược liệu quý tại đây, chị Huệ đã xây dựng thành công chuỗi liên kết chặt chẽ với người dân bản địa. Bằng cách vận dụng khéo léo các chính sách hỗ trợ của Nhà nước và địa phương, chị đã hình thành nên một vùng nguyên liệu ổn định, làm nền tảng cho việc sản xuất và chế biến sâu nông sản.

Từ nguồn dược liệu thô do bà con trồng trọt, nhà máy của chị Mỹ Huệ đã cho ra đời các sản phẩm giá trị cao như trà thảo dược, cao chiết, nước cốt dược liệu mật ong. Không chỉ khẳng định thương hiệu qua việc có mặt tại hệ thống siêu thị lớn như Co.opmart, AEON, Go... và các cửa hàng đặc sản trên toàn quốc, sản phẩm của công ty đang hướng tới xuất khẩu.

Chị Huệ chia sẻ: “Chúng tôi thấu hiểu giá trị to lớn mà các chính sách của Nhà nước đã trợ lực trong nhiều năm qua. Thông qua hoạt động kinh doanh, chúng tôi mong muốn góp phần giúp đồng bào Xơ Đăng vùng Ngọc Linh khai thác hiệu quả tài nguyên bản địa, từ đó xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế bền vững gắn với rừng”.

Theo đồng chí Xiêng Thanh Phúc, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Quảng Ngãi, nhờ thực hiện đồng bộ, hiệu quả công tác giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, tỷ lệ hộ nghèo tại các xã giảm nhanh. Điều này giúp miền núi thu hẹp dần khoảng cách về mức sống của người dân so với bình quân chung của tỉnh cũng như giảm dần số xã, thôn đặc biệt khó khăn.

Tuy nhiên, đời sống của một bộ phận người dân tộc thiểu số, miền núi tỉnh Quảng Ngãi hiện còn nhiều khó khăn. Một số vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao, cơ sở hạ tầng thiếu thốn, giao thông không thuận lợi; tỷ lệ trường học, trạm y tế đạt chuẩn còn thấp. Đến cuối năm 2024, tỷ lệ nghèo đa chiều của Quảng Ngãi còn 7,93%, tương đương hơn 42.500 hộ nghèo. Đáng chú ý, hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tới 72% trong số này, với gần 16.600 hộ. Số hộ cận nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số cũng chiếm 51% tổng số hộ cận nghèo toàn tỉnh, với hơn 10.000 hộ.

NỖ LỰC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG NGƯỜI DÂN VÙNG CAO

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ I xác định nhiệm vụ trọng tâm là giảm nghèo bền vững. Để hiện thực hóa mục tiêu này, tỉnh tập trung vào các giải pháp nền tảng: Mở rộng quy mô tín dụng chính sách, khuyến khích trí thức trẻ vay vốn đầu tư tại miền núi để tạo sinh kế; ưu tiên nguồn lực để đẩy mạnh công tác bố trí, sắp xếp dân cư một cách khoa học tại các vùng đặc biệt khó khăn, biên giới. Phấn đấu đến năm 2030, 100% hộ dân tộc thiểu số có đất ở, đất sản xuất và cơ bản không còn hộ nghèo.

Để nâng cao đời sống cho nhân dân, trong nhiệm kỳ mới 2025-2030, các xã miền núi tỉnh Quảng Ngãi đưa ra nhiều giải pháp phù hợp thực tiễn địa phương. Đảng ủy xã Sa Thầy xác định đổi mới sáng tạo, khơi dậy tinh thần tự quản ở cộng đồng, tự lực của từng hộ dân, tự chủ ở hợp tác xã, hội nhóm nông dân; khởi nghiệp là con đường phát triển phù hợp. Chính quyền cũng thay đổi nếp nghĩ, cách làm, chuyển mạnh từ hỗ trợ trực tiếp sang hỗ trợ “cách làm”, “kỹ năng quản lý” và kết nối thị trường để nâng cao năng lực nội tại của cộng đồng dân cư. Địa phương tập trung xây dựng nhiều mô hình sản xuất có kỹ thuật tiên tiến, đẩy mạnh hoạt động của các hợp tác xã theo hướng thị trường. Song song đó, kết nối với các quỹ đầu tư, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người trẻ khởi nghiệp.

Đồng chí Y Sâm, Bí thư Đảng ủy xã Sa Thầy khẳng định: “Chính quyền địa phương luôn đồng hành, làm cầu nối để liên kết các hộ sản xuất, hợp tác xã và doanh nghiệp, đồng thời hỗ trợ người dân ứng dụng khoa học-kỹ thuật, thương mại điện tử để nâng cao hiệu quả sản xuất”.

Để những mô hình đổi mới sáng tạo có nền tảng phát triển và được nhân rộng, chính quyền cơ sở đã đẩy mạnh đầu tư giáo dục và y tế vùng dân tộc thiểu số; hỗ trợ sinh kế bền vững, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; hoàn thiện kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin, giao thông nông thôn… tạo nền tảng thúc đẩy phát triển toàn diện vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc, đặc biệt là cán bộ người dân tộc thiểu số có phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Đồng chí Đinh Thị Hồng Minh, Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi khẳng định: “Trong thời gian tới, các sở, ngành và địa phương đẩy mạnh tuyên truyền thay đổi nếp nghĩ, cách làm của đồng bào dân tộc thiểu số. Tỉnh ưu tiên nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế-xã hội, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu giảm nghèo bền vững. Trong bối cảnh mới đòi hỏi cán bộ, đảng viên nắm chắc địa bàn, giải quyết những vấn đề phát sinh ngay từ cơ sở; đào tạo, nâng cao năng lực cho cán bộ vùng cao đáp ứng yêu cầu hiện nay”.

Quảng Ngãi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống; có đường biên giới với nước bạn Lào và Campuchia. Đặc điểm địa chính trị đặt ra yêu cầu cao về bảo đảm quốc phòng-an ninh và phát triển hài hòa, bền vững. Vì vậy, bộ, ngành Trung ương cần quan tâm hỗ trợ chính quyền cơ sở, ưu tiên nguồn lực đầu tư hệ thống giao thông kết nối vùng, liên vùng; hạ tầng lưới điện quốc gia; các công trình phòng, chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu; hỗ trợ sinh kế cho người dân…; tiếp tục chăm lo đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm an sinh xã hội để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần giữ vững quốc phòng-an ninh miền núi, biên giới trong tình hình mới.

Xem thêm