Tỉnh Thái Nguyên đã chấp thuận chủ trương thu hồi, sử dụng đá thải tại mỏ than Khánh Hòa, mở ra cơ hội sử dụng đất, đá thải từ khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh.
Đất, đá thải chất cao như núi
Khánh Hòa là mỏ than lớn nằm trên địa bàn phường Quan Triều. Những năm vừa qua, mỏ được bố trí hai bãi thải rộng khoảng 200 ha để chứa đất, đá. Tại mỏ, để khai thác một tấn than thì phải bóc dỡ, vận chuyển hơn 10 m³ đất, đá thải (chiếm 20% giá thành sản xuất một tấn than) chuyển lên chứa ở bãi thải. Thống kê mỗi năm mỏ khai thác khoảng 400.000 tấn than và bóc dỡ, vận chuyển khoảng 4,5 triệu mét khối đất, đá. Bãi thải hiện nay đã cao lừng lững như núi với trữ lượng lên đến hàng trăm triệu mét khối.
Giám đốc Công ty Than Khánh Hòa Bùi Ngọc Hùng cho biết: “Những năm qua, chúng tôi chi hàng trăm tỷ đồng để bồi thường đất đai, tài sản, xây dựng các khu tái định cư cho người dân để có mặt bằng đổ đất, đá thải trong quá trình khai thác than và hiện nay vẫn đang phải giải phóng mặt bằng mở rộng bãi đổ thải. Bên cạnh đó, hằng năm phải chi hàng tỷ đồng để chống sạt lở, duy trì trạng thái an toàn, giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ bãi thải”.
Mỏ than Phấn Mễ trên địa bàn xã Phú Lương có diện tích bãi thải rộng hàng trăm héc-ta, chứa gần 100 triệu mét khối đất, đá, nhìn từ xa cao như núi, tiềm ẩn nguy cơ sạt lở ảnh hưởng đến an toàn của người dân. Tháng 3/2020, bãi thải xuất hiện vết nứt lớn, đất, đá sạt trượt, mỏ than Phấn Mễ và chính quyền địa phương phải hỗ trợ 8 hộ gia đình đi thuê nhà; thành lập đoàn khảo sát liên ngành nghiên cứu, đánh giá khả năng sạt lở và thi công hạ tải bãi thải để bảo đảm an toàn.
Giám đốc mỏ than Phấn Mễ Nguyễn Xuân Tú cho biết: “Hằng năm, nhất là vào mùa mưa, bão, chúng tôi phải khảo sát thực trạng bãi thải, điều động thiết bị thi công những khu vực tiềm ẩn nguy cơ, tạo hệ thống thoát nước để đề phòng sạt lở”. Có thời gian, một số hợp tác xã trên địa bàn sử dụng đá thải từ bãi thải mỏ than Phấn Mễ để chế tạo thành vật liệu xây dựng, góp phần giảm áp lực cho bãi thải.
Bên cạnh các mỏ này, trên địa bàn tỉnh còn nhiều mỏ khoáng sản đang khai thác, hằng năm bóc dỡ, lưu trữ lượng đất, đá tại các bãi thải rất lớn mà chưa được sử dụng.
Sử dụng đất, đá thải đa mục tiêu
Khu vực phía nam và khu trung tâm tỉnh Thái Nguyên đang phát triển nhanh, nhiều khu-cụm công nghiệp, công trình hạ tầng giao thông, khu dân cư-đô thị đang được triển khai, nhu cầu về vật liệu san lấp, đá xây dựng rất lớn. Nhiều thời điểm, đất san lấp, đá xây dựng khan hiếm ảnh hưởng tiến độ thi công các công trình, giá tăng cao trong khi hàng trăm triệu mét khối đất, đá tại các bãi thải trong quá trình khai thác khoáng sản không được sử dụng là một nghịch lý.
Mặt khác, để cấp phép một mỏ đất làm vật liệu san lấp, mỏ đá làm vật liệu xây dựng phải tuân theo quy trình, thủ tục mất nhiều thời gian; từ quy hoạch, phê duyệt chủ trương đầu tư, thăm dò, đấu giá, giao đất, cho thuê đất, đánh giá tác động môi trường đến cấp phép khai thác mất từ 16 đến 18 tháng với chi phí lớn và trữ lượng mỗi mỏ đất chỉ khoảng vài triệu mét khối. Trong khi đó, hàng trăm triệu mét khối đất, đá trong quá trình khai thác khoáng sản đang được lưu trữ tại các bãi chứa; lượng đất, đá thải này phát sinh hằng ngày, phải vận chuyển đến các bãi chứa với chi phí cao, lãng phí rất lớn.
Các bãi thải chứa đất, đá ngày càng quá tải, đang đứng trước áp lực lớn, đòi hỏi mở rộng diện tích chứa và tiềm ẩn nhiều hệ lụy. Cụ thể, để mở rộng bãi chứa đất, đá thải, việc bồi thường đất đai, tài sản, tái định cư cho người dân cần chi phí rất lớn; vào mùa mưa, bão, các mỏ phải lập phương án bảo đảm an toàn bãi thải, mua sắm, củng cố phương tiện, thiết bị chống sạt lở để thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn cho người dân sinh sống dưới chân một số bãi thải; vào mùa khô, bụi từ bãi thải phát tán ra chung quanh, ảnh hưởng cuộc sống người dân.
Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Đặng Văn Huy: Mặc dù ngành chức năng thường xuyên kiểm tra, rà soát, có phương án bảo đảm an toàn bãi thải, nhưng với biến đổi khí hậu, thời tiết diễn biến bất thường, mưa lớn cực đoan nên rất lo ngại bãi thải bất ngờ sạt lở đe dọa tính mạng, tài sản người dân.
Một số nhà máy sản xuất xi-măng trên địa bàn từng sử dụng đá thải của mỏ than Khánh Hòa làm phụ gia, nhưng sản lượng không nhiều; đá thải trong quá trình khai thác của mỏ than Phấn Mễ từng được chế tạo làm vật liệu xây dựng đường giao thông, xây dựng dân dụng, nhưng sau đó được quản lý theo chế độ chất thải. Giám Công ty Than Khánh Hòa Bùi Ngọc Hùng cho biết: Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đến liên hệ mua đất, đá thải làm vật liệu san lấp, vật liệu xây dựng, nhưng mỏ không được phép bán, vì phải quản lý theo chế độ chất thải.
Khi chưa sáp nhập, Sở Xây dựng Thái Nguyên đã lấy mẫu đất, đá thải trong quá trình khai thác khoáng sản tại một số mỏ để giám định, xác định hợp chuẩn, hợp quy và phù hợp về môi trường, quy mô, tính chất sử dụng của mỗi công trình cụ thể. Việc sử dụng đất, đá thải làm vật liệu san lấp, vật liệu xây dựng sẽ giải quyết nhiều vấn đề thiết thực trên địa bàn tỉnh.
Làm việc với lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên, Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam đề nghị địa phương cho phép sử dụng đất, đá thải làm vật liệu san lấp, vật liệu xây dựng. Tỉnh Thái Nguyên đã đồng ý chủ trương sử dụng đất thải mỏ sắt Tiến Bộ làm vật liệu san lấp các khu, cụm công nghiệp, dân cư, đô thị, giao thông; đồng ý chủ trương thu hồi, sử dụng đá thải từ hoạt động khai thác khoáng sản tại mỏ than Khánh Hòa làm vật liệu xây dựng, mở ra triển vọng lượng đất, đá thải lớn từ hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn sẽ được sử dụng. Từ đó, giảm áp lực cho các bãi thải, chống lãng phí; giảm chi phí, tăng thu cho các đơn vị khai thác khoáng sản; ngân sách thu được thuế, phí và góp phần phát triển kinh tế-xã hội.