Từ trên cao nhìn xuống, Chư Đăng Ya như một bức tranh kỳ vĩ với những mảng màu luân phiên của cây trồng theo mùa. (Ảnh DŨNG NHÂN)
Từ trên cao nhìn xuống, Chư Đăng Ya như một bức tranh kỳ vĩ với những mảng màu luân phiên của cây trồng theo mùa. (Ảnh DŨNG NHÂN)

Ngày mới trên Chư Đăng Ya

Mỗi mùa hoa dã quỳ nở, miền đất Chư Đăng Ya (xã Biển Hồ, tỉnh Gia Lai) lại đánh thức bước chân lữ khách, mời gọi họ đến để cảm nhận hơi thở của đại ngàn. Theo các nhà địa chất, núi lửa Chư Đăng Ya từng phun trào cách đây hàng triệu năm, để lại lớp đất bazan màu mỡ, lý tưởng cho canh tác nông nghiệp.

Chuyện đất và người

Từ tháng 10 đến tháng 3, người dân quanh núi vào vụ trồng khoai lang, bí đỏ, bắp nếp. Đất núi lửa màu mỡ, giữ nước tốt, nhưng cũng dễ bị xói mòn nếu không biết cách canh tác. Vì thế, người dân nơi đây có những quy tắc riêng: Không cày sâu, không đốt rẫy và luôn để đất “nghỉ” sau mỗi mùa vụ.

Người dân sống quanh Chư Đăng Ya không gọi đất ở đây là “đất núi lửa”, mà chỉ đơn giản là “đất đỏ”. Anh Rơ Mah H’Binh, làng Ia Gri kể: Đất này tuy khô cằn vào mùa khô, nhưng khi có mưa thì trồng cây gì cũng tốt. Khoai lang rất ngọt, bí đỏ thì quả sai, to. Nhưng phải biết giữ đất, không được tham quá, không được trồng liên tục. Người già dạy rồi, đất cũng cần nghỉ ngơi…

Mùa khô ở Tây Nguyên kéo dài, nắng gắt, gió nóng thổi mạnh khiến đất đai nứt nẻ, cây trồng thiếu nước. Mùa mưa thì sạt lở, đường sá bị chia cắt. Cuộc sống tuy vất vả nhưng người dân Chư Đăng Ya vẫn bám đất, bám làng. “Có năm mất trắng cả vụ khoai, nhưng chúng tôi vẫn trồng lại. Bởi vì đây là đất của ông bà tổ tiên, là nơi chúng tôi sinh ra và lớn lên”, anh Rơ Mah H’Binh bộc bạch.

Ngày nay, cuộc sống của người dân quanh núi vẫn giữ nhiều nét truyền thống từ xưa. Nhà sàn bằng gỗ, mái lợp tôn hoặc tranh, bếp củi luôn đỏ lửa vào sáng sớm. Tiếng cồng chiêng tuy không vang lên mỗi ngày, nhưng vào dịp lễ làng, cưới hỏi hay mừng lúa mới, cả làng lại tụ họp dưới chân núi, bên ché rượu cần để tiếng chiêng lại ngân vang khắp núi rừng.

Ngày nghỉ học, trẻ con trong làng thường theo cha mẹ lên rẫy, mang theo cơm nắm, muối ớt và một chiếc gùi nhỏ. Các em không chỉ học cách trồng cây mà còn học cách quan sát thời tiết, cách nhận biết đất tốt, cách giữ rẫy không bị bạc màu. Mỗi tuần một lần, chợ phiên dưới chân núi lại họp.

Chị Rơ Lan H’Mi, người phụ nữ Jrai với nụ cười hiền hậu bên bếp khoai nướng ở chợ phiên vừa trở tay lật mẻ khoai vừa tự hào kể, khoai lang tím Chư Đăng Ya ngọt nhất cao nguyên đấy. Không đâu sánh bằng. Câu nói ấy không chỉ là lời quảng cáo, mà là niềm tin được vun đắp qua bao mùa vụ. Trồng trên lớp đất đỏ bazan, củ khoai nơi đây chắc nịch, ngọt đậm, thơm bùi. Chính sự đặc biệt ấy đã biến khoai lang tím Chư Đăng Ya thành “đặc sản có hẹn” nên thương lái thường đặt mua từ khi ruộng còn xanh lá.

Mong những bước chuyển mình

Người Jrai coi núi Chư Đăng Ya là nơi linh thiêng. Trẻ con được dạy không la hét khi lên núi, không hái hoa dã quỳ bừa bãi và không được ngủ lại trên đỉnh núi.

Lên đỉnh Chư Đăng Ya vào sáng sớm có lẽ là trải nghiệm khó quên với bất kỳ du khách nào khi đặt chân đến đây. Đường lên núi không quá khó, qua những rẫy khoai, bụi hoa và thi thoảng có đoạn đường đất đỏ trơn trượt. Trên đỉnh, gió mạnh hơn, từ đây có thể nhìn thấy cả vùng đất Chư Păh với những rẫy cà-phê xanh mướt, những mái nhà lợp tôn bạc mầu và cả những con đường uốn lượn. Mỗi năm, thời điểm tháng 11 khi hoa dã quỳ nở rộ, Chư Đăng Ya lại trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách.

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai Nguyễn Thị Thanh Lịch cho biết, tháng 11 là thời điểm thiên nhiên khoác lên mình tấm áo mới. Để quảng bá hình ảnh Gia Lai đến du khách thập phương, tỉnh đã giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì xây dựng chương trình, kịch bản chi tiết phục vụ ngày hội hoa dã quỳ, tập trung giới thiệu sản phẩm OCOP, đặc sản địa phương để thu hút khách du lịch.

Thời điểm này, những con đường đất đỏ uốn lượn quanh núi đã hiện lên những vạt hoa vàng rực rỡ dưới nắng cao nguyên, tạo nên một bức tranh sống động đầy màu sắc. Chính quyền địa phương đã làm lối đi bộ riêng, đặt biển hướng dẫn, tổ chức đội tình nguyện thu gom rác, xây dựng đề án phát triển du lịch cộng đồng, hỗ trợ đào tạo kỹ năng, kết nối tour liên vùng… để thúc đẩy du lịch. Chị Nguyễn Thị Mai, hướng dẫn viên du lịch tại Pleiku chia sẻ, du khách đến đây không chỉ để ngắm hoa, mà còn để cảm nhận sự bình yên, mộc mạc, chân chất của người dân. Họ được ăn cơm lam, uống rượu cần, nghe kể chuyện về núi lửa, về đời sống của người Jrai.

Mặc dù tiềm năng du lịch cộng đồng ở Chư Đăng Ya đang dần được đánh thức, song hành trình phát triển còn nhiều khó khăn. Một số hộ dân đã mạnh dạn mở homestay, bán đặc sản như khoai lang, mật ong rừng, rượu cần. Thanh niên trong làng trở thành hướng dẫn viên, dẫn khách lên đỉnh núi, kể chuyện về đời sống bản địa, về những mùa hái trái xoay, lễ hội mừng lúa rẫy được mùa.

Tuy nhiên, đi cùng cơ hội là không ít thách thức. Một số đoạn đường mòn bị xói lở vì xe máy qua lại nhiều, rác thải xuất hiện sau mùa lễ hội, hoa dã quỳ bị hái quá tay những năm trước để lại hình ảnh không đẹp. Hạ tầng giao thông chưa hoàn thiện, dịch vụ lưu trú còn thiếu thốn, nhân lực du lịch chưa được đào tạo bài bản… là những điều cần cải thiện. Đáng lo hơn cả là ranh giới mong manh giữa phát huy và bảo tồn đang dần bị xóa nhòa, nhất là khi du lịch phát triển quá nhanh mà thiếu định hướng những giá trị văn hóa bản địa. Từ kiến trúc nhà rông, lễ hội truyền thống đến lối sống cộng đồng có nguy cơ bị thương mại hóa, biến tướng theo thị hiếu thị trường.

Để Chư Đăng Ya thật sự trở thành điểm đến bền vững, cần một chiến lược phát triển hài hòa, nơi cư dân địa phương vừa là người làm du lịch, vừa là chủ thể gìn giữ di sản của dân tộc mình.

Dưới chân ngọn núi lửa đã ngủ yên, cuộc sống của người Jrai, Ba Na vẫn tiếp tục được viết qua những củ khoai lang tím ngọt lịm, câu chuyện kể bên bếp lửa và khát vọng gìn giữ núi làng như một phần máu thịt. Sức sống nơi đây không nằm trong lòng đất từng cháy đỏ, mà trong trái tim những con người kiên cường, gắn bó với núi như lời người già ở đây từng nói: “Núi vẫn là núi của làng”.

Xem thêm