Cô Lô Thị Minh Huế, giáo viên Trường PTDTBT Tiểu học Mậu Long (Tuyên Quang) dạy tiếng Anh cho học sinh.
Cô Lô Thị Minh Huế, giáo viên Trường PTDTBT Tiểu học Mậu Long (Tuyên Quang) dạy tiếng Anh cho học sinh.

Khoa học - Giáo dục

Lớp học “trong mây” & giấc mơ hội nhập

Giữa đêm vùng cao, ánh đèn lớp học tiếng Anh ở Mèo Vạc (Tuyên Quang) vẫn le lói trong sương núi. Từ Mậu Long, Tà Lủng đến Sà Phìn, những tiếng “How are you?” vang lên giữa núi rừng - giản dị mà chất chứa khát vọng vươn ra thế giới.

Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học là bước chuyển lớn của giáo dục Việt Nam, nhưng ở vùng cao - nơi tiếng Việt vẫn còn là “ngôn ngữ thứ hai” - hành trình ấy vẫn là một “triền núi dốc”.

Khi tiếng Anh vượt núi

Trường Tiểu học Tà Lủng, thuộc xã vùng cao của tỉnh Tuyên Quang, đã bốn năm liền chưa có giáo viên tiếng Anh. Triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới buộc phải nhờ đến sự hỗ trợ của các thầy cô Trường Marie Curie (Hà Nội) và dự án thiện nguyện “Ước mơ Xanh”. Mỗi tuần, các em học một tiết trực tiếp với giáo viên tăng cường, ba tiết còn lại được kết nối trực tuyến với giáo viên Hà Nội.

“Học sinh rất ngoan, nhưng để dạy tiếng Anh khi các em còn rụt rè, thậm chí chưa thạo tiếng Việt, là điều không dễ”, cô Đặng Thị Quỳnh Trang chia sẻ. Đôi khi chỉ một từ đơn giản như cheese (phó mát) hay dining table (bàn ăn) cũng phải mất nhiều thời gian mới giải thích xong, bởi các em chưa từng thấy những vật dụng đó trong đời thực. Cô Vũ Nhất Nhất - giáo viên dạy trực tuyến - kể rằng phải thêm tranh ảnh, phim hoạt hình, thậm chí cả trò chơi, để trẻ vừa học vừa hình dung thế giới bên ngoài. “Chỉ cần một học sinh mạnh dạn nói trọn câu How are you today? cũng đủ khiến con dốc ngôn ngữ kia thấp đi đôi chút”.

Cách đó không xa, cô Lô Thị Minh Huế, giáo viên tiếng Anh duy nhất của ba trường tiểu học thuộc xã Mậu Duệ và Ngọc Long đang dạy gần một nghìn học sinh cùng lúc. Mỗi tiết học là một “ca trực công nghệ”: cô dạy trực tiếp tại điểm trường chính, đồng thời kết nối trực tuyến đến hàng chục lớp học khác. Một khối có gần mười lớp, mỗi lớp hơn 30 học sinh. Không thể quản hết, cô nhờ giáo viên chủ nhiệm bật mic từng lớp, gọi học sinh trả lời. “Khó nhất là không được gặp trực tiếp, nhưng ít nhất các con vẫn được nghe, được nói, được làm quen với tiếng Anh - thế là quý rồi”, cô mỉm cười.

Ở Trường Phổ thông Dân tộc nội trú THCS và THPT Mèo Vạc, tiếng Anh được dạy vào buổi tối. “Nhà trường chỉ có một giáo viên tiếng Anh, nên chúng tôi phải hợp đồng thêm năm giáo viên từ các trường khác”, Hiệu trưởng Nguyễn Trường Lâm chia sẻ. Cả Ban Giám hiệu cũng đăng ký học văn bằng hai tiếng Anh, vừa tự bồi dưỡng, vừa làm gương cho học sinh.

Giữa gió lạnh và sương núi, ánh đèn lớp học vẫn sáng. Mỗi âm tiết tiếng Anh vang lên, còn lẫn giọng địa phương nhưng đã mở ra một cánh cửa mới - cánh cửa của tri thức và tự tin hội nhập.

tieu-hoc-ta-lung.jpg
Giờ học tiếng Anh của học sinh Trường Tiểu học Tả Lủng - một trong những điểm trường xa nhất của xã Mèo Vạc.

Rào cản do thiếu giáo viên

Trong kỷ nguyên hội nhập và chuyển đổi số, tiếng Anh được coi là “hạ tầng mềm” của phát triển. Nghị quyết số 71-NQ/TW (2025) của Bộ Chính trị xác định năng lực ngoại ngữ là một trong những đột phá chiến lược để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trên cơ sở đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Chính phủ Đề án “Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn 2045” - một bước ngoặt về tư duy giáo dục, chuyển từ “học để thi” sang “học để dùng”.

Theo ước tính, để thực hiện đề án này, cả nước cần bổ sung khoảng 22 nghìn giáo viên tiếng Anh và đào tạo lại gần 200 nghìn giáo viên các môn khác để đủ năng lực giảng dạy song ngữ. Thế nhưng, thực tế cho thấy năng lực tiếng Anh của học sinh phổ thông vẫn rất thấp: điểm trung bình môn tiếng Anh trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2025 chỉ đạt 5,38/10, thấp nhất trong các môn thi; ở vùng cao, 8/10 học sinh chưa đạt chuẩn năng lực A2.

Tình trạng thiếu giáo viên tiếng Anh không chỉ ở Tuyên Quang mà ở nhiều tỉnh trên toàn quốc. Đầu năm học 2024-2025, huyện Lang Chánh cũ (Thanh Hóa) có chín trường tiểu học và THCS phải tạm dừng dạy tiếng Anh trong hai tháng, ảnh hưởng tới hơn 2.700 học sinh. Năm học 2025-2026, Đắk Lắk cũng thiếu gần 700 biên chế giáo viên, chủ yếu ở các môn tiếng Anh, Tin học và các môn tích hợp.

Nhiều địa phương đã có chính sách thu hút mạnh tay để giải bài toán thiếu giáo viên tiếng Anh. Tỉnh Hậu Giang (cũ) thưởng 50 triệu đồng cho mỗi giáo viên mới tuyển; Lào Cai hỗ trợ ban đầu từ 100-150 triệu đồng tùy khu vực... Thế nhưng, hiệu quả vẫn chưa như kỳ vọng. Có nơi “đăng tuyển bảy, chỉ một người ứng tuyển”, rồi lại phải xoay xở bằng những giải pháp tình thế: điều động, hợp đồng ngắn hạn, dạy trực tuyến hỗ trợ từ xa. Không chỉ nguồn tuyển khan hiếm, mà bài toán giữ chân giáo viên tiếng Anh vùng cao cũng vẫn chưa có lời giải thấu đáo lâu dài. Chính sách đã mở đường, nhưng để tiếng Anh thật sự “sống” trong lớp học miền núi, cần hơn cả những ưu đãi tài chính - đó là một chiến lược nhân lực gắn với địa bàn, để ngôn ngữ hội nhập không bị đứt quãng giữa hành trình đi lên từ bản làng.

lop-hoc-khong-bien-gioi.jpg
Mô hình “Lớp học xuyên biên giới” giúp học sinh vùng cao kết nối với thế giới qua những tiết học tiếng Anh trực tuyến.

Từ “học để thi” đến “học để dùng”

Một hướng đi được nhiều chuyên gia đánh giá cao là chiến lược phát triển nhân lực bản địa: tuyển chọn học sinh vùng cao có năng khiếu ngoại ngữ, hỗ trợ chi phí học tập, rồi đưa họ trở lại phục vụ quê hương. Khi giáo viên nói cùng tiếng mẹ đẻ, hiểu phong tục và nhịp sống của học trò, việc truyền đạt kiến thức thuận lợi hơn.

Mô hình mà thầy Nguyễn Xuân Khang, Hiệu trưởng Trường Marie Curie (Hà Nội) khởi xướng tại huyện Mèo Vạc (cũ) là một minh chứng. Thầy Khang quyết định đầu tư 12 tỷ đồng đào tạo 30 giáo viên tiếng Anh cho địa phương. Mỗi sinh viên được hỗ trợ 5 triệu đồng/tháng trong bốn năm đại học, đổi lại là cam kết trở về Mèo Vạc giảng dạy. Họ đều là con em vùng cao - vừa có năng lực, vừa có tình yêu với quê hương.

Cùng tinh thần ấy, câu chuyện của cô Hà Ánh Phượng, giáo viên người Mường ở Trường THPT Hương Cần (Phú Thọ) cho thấy sức mạnh của công nghệ và niềm tin. Từ một ngôi trường miền núi, cô kết nối học sinh Việt Nam với bạn bè khắp thế giới qua lớp học trực tuyến bằng tiếng Anh, đưa văn hóa địa phương lên màn hình toàn cầu. Năm 2020, cô Phượng được vinh danh Top 10 giáo viên toàn cầu (Global Teacher Prize) minh chứng rằng, chỉ cần tâm huyết và sáng tạo, tiếng Anh hoàn toàn có thể từ lớp học nhỏ vượt núi, lan tỏa khắp năm châu.

Mô hình “một cô - nhiều lớp” của cô Lô Thị Minh Huế tại Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học Mậu Long cũng cho thấy hướng đi khả thi trong điều kiện thiếu giáo viên trầm trọng. Nếu được tổ chức bài bản, mô hình này có thể phát triển thành hệ thống “giáo viên trung tâm nguồn”: những thầy cô đạt chuẩn phụ trách giảng dạy qua mạng cho nhiều điểm trường, trong khi giáo viên tại chỗ hỗ trợ tương tác, duy trì kỷ luật và nề nếp. Cùng với đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể đóng vai trò kết nối liên vùng, điều phối giữa nơi thừa và nơi thiếu giáo viên thông qua mạng lưới dạy học tiếng Anh trực tuyến.

Các đô thị lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh hoàn toàn có thể “đỡ đầu” cho miền núi bằng cách chia sẻ học liệu, cử giáo viên hỗ trợ từ xa, tổ chức sinh hoạt chuyên môn trực tuyến định kỳ. Khi công nghệ trở thành cầu nối, học sinh ở điểm trường heo hút nhất vẫn được học cùng giáo viên đạt chuẩn quốc gia - dù cách nhau hàng trăm cây số. Hệ thống bài giảng chuẩn kết hợp hạ tầng số, nếu được đầu tư đồng bộ, sẽ góp phần thu hẹp khoảng cách học tập giữa vùng cao và vùng thấp, giúp chính sách “Tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai” thật sự đi vào đời sống.

Và quan trọng hơn, là đưa tiếng Anh hòa vào đời sống. Ở những bản làng du lịch như Đồng Văn, Lũng Cú, Sà Phìn hay Mậu Duệ của tỉnh Tuyên Quang, mỗi mùa du khách đến là cơ hội để học sinh thực hành ngoại ngữ. Khi các em biết nói “Welcome to my village” hay kể về “stone fields” bằng tiếng Anh, đó không chỉ là bài học ngữ pháp mà là một bài học về lòng tự hào. Những “English Corner” bản làng - góc tiếng Anh nơi trẻ giao tiếp với khách du lịch - có thể trở thành mô hình mới, kết hợp giữa giáo dục, văn hóa và du lịch cộng đồng.

Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Tuyên Quang Hoàng Thị Thu Hiền nhấn mạnh: “Tiếng Anh không chỉ dạy trong lớp học, mà cần phải sống trong bản làng. Khi trẻ biết nói “Hello” với du khách, đó là khởi đầu của hội nhập”.

Nếu có cơ chế linh hoạt quan tâm đầu tư cho vùng cao, mỗi địa phương được trao quyền chủ động triển khai Đề án “Đưa tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai trong trường học”, chính sách ấy có lẽ không còn xa vời.

Xem thêm