Giá cá tầm mất giá, hàng trăm hộ nuôi cá ở Lai Châu lâm vào cảnh khó khăn nợ nần
Giá cá tầm mất giá, hàng trăm hộ nuôi cá ở Lai Châu lâm vào cảnh khó khăn nợ nần

Lai Châu, người nuôi đổ nợ vì cá tầm mất giá

Cá tầm nhập khẩu tràn vào thị trường, giá cá tầm trong nước giảm sâu. Hàng trăm hộ nuôi cá tầm ở Lai Châu bị ảnh hưởng dẫn đến nợ nần, phải bán tháo hoặc bỏ nghề. Việc kiểm soát nguồn gốc chưa chặt chẽ, chăn nuôi nhỏ lẻ, manh mún khiến người nuôi “thua ngay trên sân nhà”, đòi hỏi phải có các giải pháp quản lý, tiêu thụ cấp bách.

Đổ nợ vì cá

Đến bản Chu Va 8 (xã Bình Lư) - nơi gần 200 hộ nuôi cá tầm sẽ thấy sự đìu hiu hiện rõ. Trước đây, mỗi ngày có vài chuyến xe vào thu mua cá, bà con tất bật chăm cá, xuất bán cá thương phẩm.

Hiện tại giá xuống thấp, thương lái không mua hoặc ép giá, cá thương phẩm tồn kho kéo dài; cơ sở sản xuất giống cũng bị “nghẽn” đầu ra. Nhà còn vốn thì cầm cự cho cá ăn, chờ giá lên; hộ nhỏ lẻ buộc phải bán tháo để trả tiền cám, trả nợ ngân hàng, thậm chí tạm dừng nuôi để đi làm thuê.

Chị Nguyễn Thị Hà ở Chu Va 8 cho biết: Ngoài hơn 2 vạn cá tầm đang nuôi, gia đình còn làm đại lý cung ứng thức ăn cho các hộ trong bản. Như mọi năm, cá chỉ cần đạt khoảng 1,7 kg trở lên là thương lái đến tận nơi thu mua, giá dao động từ 180 đến 230 nghìn đồng/kg. Năm nay, giá bình quân chỉ còn khoảng 100 nghìn đồng/kg, gọi thương lái họ cũng không thu hoặc ép giá… Hiện gia đình chị còn tồn khoảng 15 tấn cá thành phẩm.

5-6212.jpg
Chị Sùng Thị Chứ ở bản Chu Va 8 còn nợ ngân hàng gần 400 triệu đồng do cá mất giá không bán được.

Cá tồn không bán được, tiền cám cung ứng cho bà con cũng chưa thể thu về, khiến gia đình chị Hà đang gánh nợ ngân hàng hơn 2 tỷ đồng; riêng bà con trong bản còn nợ đại lý của chị gần 2 tỷ đồng tiền cám, có nhà nợ vài chục triệu, có nhà lên đến cả trăm triệu. “Nhiều hộ phải bán tháo cá nhưng cũng chỉ đủ trả nợ cũ, nợ mới lại trông vào lứa sau…”, chị Hà bùi ngùi.

Theo chị Hà, bản Chu Va 8 có gần 200 hộ nuôi cá nước lạnh; hộ ít nuôi vài nghìn con, hộ nhiều lên đến vài vạn. Hầu hết các hộ đồng bào dân tộc thiểu số đều khó khăn, phải vay ngân hàng hoặc mượn người thân để đầu tư. Vì cá bán chậm hoặc bị ép giá, hầu hết các hộ phải gánh nợ, tiền bán cá chỉ đủ trả tiền cám.

Có hộ như Vàng A Mai xuất bán gần 7.000 con cá vẫn chưa đủ trả nợ tiền thức ăn, do đó phải giãn khoản nợ 400 triệu đồng của ngân hàng; hộ Hàng A Lãng, Hàng A Lềnh phải cắm cả nhà, cả xe để duy trì đàn cá, hy vọng giá hồi phục. Đã có hơn 20 hộ bán tháo cá trả nợ ngân hàng, nhiều hộ tạm bỏ nghề đi làm thuê.

6-8026.jpg
Cá mất giá, cơ sở đầu tư dở dang bỏ luôn việc đầu tư

Chị Sùng Thị Chứ ở cùng bản cho hay, gia đình còn nợ gần 400 triệu đồng ngân hàng và gần 200 triệu đồng tiền cám. Cá đã đến lứa nhưng thương lái không mua, hoặc trả giá thấp (90 nghìn đồng/kg). Nếu bán lúc này, cũng chỉ đủ thanh toán chi phí thức ăn, còn nợ ngân hàng phải để lại.

Không chỉ hộ nhỏ lẻ, Hợp tác xã Thủy sản cao nguyên Sìn Hồ đầu tư hơn 10 tỷ đồng, quy mô chăn nuôi hơn 100 tấn/năm cũng gặp khó. Những thương lái từng hợp tác, nay không thu mua hoặc ép giá.

Ông Phí Văn Cường, Giám đốc Hợp tác xã cho biết, hiện đơn vị còn khoảng 30 tấn cá chưa xuất được; hơn 2 tỷ đồng nợ ngân hàng cũng phải giãn. Mặc dù đã giảm khẩu phần từ 3 bữa/ngày xuống 1 bữa/ngày để cầm cự, nhưng chi phí thức ăn cầm chừng vẫn hơn 10 triệu đồng/ngày, chưa kể nhân công và chi phí khác.

Ông Phí Văn Cường, Giám đốc Hợp tác xã Thủy sản cao nguyên Sìn Hồ đề nghị các ngành chức năng tăng cường quản lý hoạt động nhập khẩu cá tầm, kiểm soát chặt đầu vào, nguồn gốc xuất xứ, giá sàn nhập khẩu, chất lượng, chủng loại, tránh gian lận thương mại; hỗ trợ xúc tiến thương mại, ứng dụng khoa học- công nghệ, phát triển chăn nuôi theo chuỗi liên kết... giúp người nuôi cá nước lạnh ổn định sản xuất và tiêu thụ.

Cần kiểm soát và tổ chức lại ngành nuôi cá nước lạnh

Theo các hội ngành hàng và người nuôi cá, cá tầm nhập khẩu chính ngạch từ Trung Quốc với số lượng lớn, tiêu thụ tươi sống đã cạnh tranh trực tiếp, kéo giá cá trong nước xuống. Việc kiểm soát nguồn gốc, xuất xứ và giá cả còn thiếu chặt chẽ khiến cá nhập dễ bị “hô biến” thành cá nuôi trong nước, đưa vào nhà hàng và bán lẻ ngoài chợ với giá thấp, làm giảm giá trị sản phẩm nội địa.

Tại Lai Châu, ngoài tác động khách quan từ nhập khẩu, việc phát triển quá nóng, tự phát, manh mún, thiếu liên kết; tư tưởng phụ thuộc thương lái, thiếu chủ động trong quảng bá, mở rộng kênh phân phối cũng khiến người nuôi cá tầm khó tự “giải cứu” mình.

1-8900.jpg
Hợp tác xã Thủy sản cao nguyên Sìn Hồ còn tồn gần 30 tấn cá thành phẩm đang phải duy trì để cầm cự.

Theo thống kê của Chi cục Chăn nuôi và Thú y Lai Châu, toàn tỉnh hiện có 197 cơ sở nuôi cá nước lạnh, song số liệu có thể chưa đầy đủ do nhiều nơi chưa thống kê hoặc không thông hết các cơ sở nuôi nhỏ lẻ, tự phát đang vi phạm quy định về sử dụng đất, lấn chiếm đất rừng, dòng chảy, chưa chấp hành pháp luật về nuôi trồng thủy sản... Trước đó, Sở Nông nghiệp và Môi trường cùng Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu đã có nhiều văn bản chỉ đạo kiểm soát, quản lý vấn đề này.

Đơn cử như bản Chu Va 8, chỉ vài năm, từ vài hộ đã tăng lên gần 200 hộ nuôi cá nước lạnh. Ngoài một số cơ sở lớn, đạt yêu cầu, tại các xã Bình Lư, Sin Suối Hồ, Tả Lèng, Khun Há… vẫn còn nhiều cơ sở nhỏ lẻ, manh mún và tự phát giống như ở Chu Va 8.

Ngoài ra, hiện toàn tỉnh Lai Châu mới có 1 cơ sở được cấp mã số cơ sở nuôi trồng; chưa có cơ sở nào được chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, ươm dưỡng giống. Sản xuất nhỏ lẻ, thiếu liên kết khiến việc xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc khó triển khai, người nuôi càng bị động và phụ thuộc vào thương lái.

Theo kế hoạch dự kiến đến hết năm 2025, sản lượng cá nước lạnh của Lai Châu đạt khoảng 590 tấn. Chất lượng cá tầm Lai Châu được đánh giá cao, nhưng tồn kho tại các cơ sở hiện khá lớn.

Thay vì cân đối giá thành sản xuất với giá bán thị trường để tiêu thụ khi cá đã đến kỳ thu hoạch, nhiều hộ vẫn giữ cá chờ giá hồi phục hoặc chờ siết nhập khẩu để thị trường ổn định.

Trong khi đó, ngay tại Lai Châu, người tiêu dùng vẫn phải mua cá tầm giá cao ở kênh bán lẻ, thậm chí tại cơ sở nuôi, và vẫn sử dụng cá tầm tươi sống như mặt hàng cao cấp tại các nhà hàng, quán bar. Độ vênh giữa giá bán lẻ và giá mua tại ao khiến người nuôi càng “kẹt vốn”.

z6919752205588-7e9686a1f9374c2d78aae7b9cbba719d-3349.jpg
Các cơ sở cung cấp cá giống cũng bị “nghẽn” đầu ra

Ông Nguyễn Thành Đồng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Lai Châu cho biết, Sở đã nắm tình hình cá tầm mất giá, tồn đọng và đang chỉ đạo các đơn vị liên quan kiểm tra, đánh giá lại; đồng thời phối hợp với cơ sở nuôi tính toán, cân đối định mức giá thành, làm cơ sở đề xuất phương án tiêu thụ nếu cần “giải cứu”.

Về lâu dài, Sở đã và đang chỉ đạo kiểm tra, rà soát, thống kê, tăng cường quản lý nuôi cá nước lạnh; kiên quyết xử lý phát triển ồ ạt, mất kiểm soát, vi phạm pháp luật về thủy sản; sàng lọc và tổ chức lại cơ sở chăn nuôi, quản lý liên kết sản xuất, cấp chỉ dẫn địa lý, mã truy xuất nguồn gốc, xây dựng thương hiệu - chỉ khi chăn nuôi có kiểm soát mới bảo vệ được người dân.

Cùng với đó, ngành khuyến nghị các cơ sở lựa chọn con giống chất lượng, áp dụng biện pháp phòng trị bệnh tổng hợp để giảm hao hụt; tối ưu khẩu phần ăn cho cá theo giai đoạn nhằm giảm chi phí, hạ giá thành cá thương phẩm; tăng cường quảng bá trên nền tảng số, mở rộng kênh phân phối, kết hợp bán buôn – bán lẻ và du lịch sinh thái để mở rộng đầu ra. Đây là những bước đi cần thiết giúp ổn định sản xuất và tiêu thụ trong bối cảnh thị trường biến động.

Xem thêm