Đây là nội dung được đưa ra thảo luận tại Diễn đàn “Sức khỏe đất trồng lúa-nền tảng phát triển xanh và bền vững” diễn ra ngày 29/10 tại Hà Nội. Sự kiện do Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam phối hợp Hội Khoa học Đất Việt Nam tổ chức, nhằm tham vấn ý kiến các nhà quản lý, nhà khoa học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp về giải pháp phục hồi và nâng cao sức khỏe đất, hướng tới sản xuất lúa gạo bền vững, phát thải thấp.
Đất trồng lúa-trụ cột của an ninh lương thực và xuất khẩu gạo
Phát biểu khai mạc, ông Vũ Năng Dũng, Chủ tịch Hội Khoa học Đất Việt Nam, nhấn mạnh, lúa là cây trồng quan trọng nhất của ngành nông nghiệp, chiếm diện tích lớn nhất trong tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Năm 2023, đất trồng lúa chiếm 33,7% tổng diện tích đất canh tác, gắn với việc làm và đời sống của 61,9% dân số nông thôn.
Theo ông Dũng, sản xuất lúa gạo không chỉ bảo đảm an ninh lương thực, mà còn góp phần ổn định xã hội, tạo nền tảng phát triển cho các ngành kinh tế khác và nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam thông qua xuất khẩu gạo. Từ năm 1989 đến nay, mặc dù diện tích trồng lúa giảm, song năng suất tăng liên tục, từ 17,93 tạ/vụ năm 1978 lên 61,1 tạ/vụ năm 2023, với sản lượng thóc đạt 43,5 triệu tấn. Thành quả này là kết tinh của chính sách đổi mới, đầu tư cho thủy lợi, hạ tầng nông thôn, cùng nỗ lực của nông dân, nhà khoa học và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, ông Dũng cảnh báo, sau nhiều năm thâm canh, một bộ phận đất trồng lúa đang bị suy thoái về lý tính, hóa tính và hệ vi sinh vật, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng hạt gạo. Biến đổi khí hậu, cùng việc lạm dụng phân bón vô cơ và thuốc bảo vệ thực vật, khiến đất ngày càng chai cứng, giảm độ xốp và hàm lượng hữu cơ.
“Phục hồi và duy trì độ phì nhiêu của đất trồng lúa cần được xem là chiến lược lâu dài, tác động tích cực đến tính chất lý, hóa và sinh học của đất - nền tảng cho sản xuất bền vững. Đất khỏe, lúa tốt, con người cũng khỏe mạnh hơn”, ông Dũng nhấn mạnh.
Theo ông Trần Minh Tiến, Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, để cải thiện sức khỏe đất trồng lúa, trước hết cần xây dựng cơ sở dữ liệu đất toàn quốc và bộ tiêu chí đánh giá sức khỏe đất. Trên cơ sở đó, xác định điểm yếu của từng loại đất để có giải pháp “bồi bổ” phù hợp; điều chỉnh phương pháp canh tác, sử dụng phân bón hợp lý dựa trên đặc điểm đất và nhu cầu thực tế của cây trồng.
Ông Tiến cho rằng, cần tận dụng tối đa phế phẩm nông nghiệp để hoàn trả dinh dưỡng cho đất, cân đối giữa phân hữu cơ và vô cơ, ưu tiên các loại phân bón giảm phát thải và tăng hiệu quả hấp thu dinh dưỡng. Các mô hình canh tác bền vững đang được triển khai, trong đó có mô hình của Công ty cổ phần Phân bón Bình Điền Ninh Bình, cho thấy hiệu quả rõ rệt: đất khỏe hơn, năng suất ổn định và nông dân tiết giảm chi phí sản xuất.
Nhiều mô hình canh tác hiệu quả được ghi nhận dựa trên ba yếu tố: quản lý nước tiết kiệm; điều chỉnh mật độ gieo cấy, thời điểm xuống giống phù hợp; và sử dụng phân bón đúng cách, đặc biệt là các sản phẩm giúp giảm thất thoát dinh dưỡng.
Cũng theo ông Tiến, nhiều nông dân hiện nay vẫn bón phân NPK theo công thức chung, chưa phù hợp với từng loại đất, đồng thời chưa quan tâm đầy đủ đến các nguyên tố, vi lượng-những yếu tố có vai trò quan trọng trong cân bằng dinh dưỡng và nâng cao năng suất.
Hướng tới nền nông nghiệp xanh và phát thải thấp
Liên hệ với Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long, ông Trần Minh Tiến cho rằng đây là chương trình có ý nghĩa chiến lược, vừa nâng cao thu nhập cho nông dân, vừa giảm phát thải, bảo vệ môi trường và sức khỏe con người. Các giải pháp trong đề án đều hướng tới sử dụng đất hiệu quả, bảo vệ tài nguyên đất và hệ sinh thái nông nghiệp.
Ông Tiến cũng lưu ý, cần có chính sách quốc gia dài hạn về bảo vệ tài nguyên đất nông nghiệp. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất lúa cần được cân nhắc kỹ, bởi “một khi đã chuyển đổi, rất khó phục hồi để trồng lại”.
Ở góc nhìn địa phương, ông Võ Quang Minh, Hội Khoa học Đất Việt Nam, cho biết Đồng bằng sông Cửu Long hiện có 9 nhóm đất với 55 loại đất khác nhau, song nhiều khu vực đang bị suy thoái nghiêm trọng.
Theo ông Minh, chiến lược sử dụng đất bền vững ở vùng này cần dựa trên tái cơ cấu ngành lúa gạo, giảm diện tích lúa độc canh, phát triển mô hình xen canh - đa canh, tăng tỷ lệ lúa chất lượng cao, ứng dụng nông nghiệp thông minh và đẩy mạnh liên kết chuỗi giá trị để phát triển thương hiệu gạo Việt Nam.
Trong khuôn khổ diễn đàn, tọa đàm “Liên kết trong phục hồi và nâng cao sức khỏe đất trồng lúa-hướng tới nền nông nghiệp xanh và bền vững” đã diễn ra sôi nổi. Các chuyên gia thống nhất rằng, muốn nâng cao chất lượng nông sản, đặc biệt là gạo xuất khẩu, Việt Nam phải xây dựng chiến lược dài hạn phục hồi sức khỏe đất.
Ông Vũ Năng Dũng khẳng định: “Cốt lõi của chiến lược là trả lại chất hữu cơ cho đất, cải thiện tính chất lý-hóa, tăng độ tơi xốp, cân bằng pH. Khi đất khỏe, sản phẩm nông nghiệp sẽ đạt chuẩn cao hơn, đáp ứng nhu cầu khắt khe của thị trường quốc tế, góp phần nâng cao vị thế nông sản Việt Nam trên thế giới”.