Nói về tên tập bút ký, nhà văn Đoàn Tuấn cho biết, tháng 7 năm 1983, sau 5 năm chinh chiến trên chiến trường Campuchia, ông được ra quân, về nước. Qua đồn biên phòng số 23, ông cùng đồng đội nghỉ lại trong một hậu cứ ở lưng đèo Mang Yang. Bức tranh đẹp đầu tiên ở quê nhà mà ông nhìn thấy đó là hình ảnh người phụ nữ dắt theo con bò, xa xa, một ngọn khói đang cuộn lên mang theo mùi thơm của rơm rạ quê hương.
“Một làn khói mỏng, bay lên từ nương rẫy trên sườn đồi, sao tôi cứ đứng nhìn mãi? Trong khoảnh khắc đó, tôi biết mình đã sống, đã trở về thật rồi. Tổ quốc hiện lên không bằng cờ, không bằng khẩu hiệu, mà bằng chính làn khói xanh mờ ấy. Nó giản dị, âm thầm và bền bỉ như hơi thở”, nhà văn chia sẻ.
Và trong gần 300 trang sách, những câu chuyện mà nhà văn Đoàn Tuấn kể lại như những làn khói mỏng cứ ám ảnh người đọc. Đó là chân dung những người lính, cũng là đồng đội của tác giả ở chiến trường K. Có người vẫn tiếp tục cuộc sống sau khi chiến tranh kết thúc, có người nằm lại ở những ngọn đồi, con suối không tên mà nhà văn chỉ gặp lại họ trong những ngọn khói chiều im lặng, bay lên.
Từng câu chuyện nối tiếp nhau như một hành trình dẫn dắt độc giả đi từ những ngày giữ chốt ở Gia Lai-Kon Tum đến khi vượt biên giới làm nghĩa vụ quốc tế, vượt sông Mekong truy kích quân Pol Pot, rồi tiến sang vùng Preah Vihear bảo vệ biên giới Campuchia, chống quân Pol Pot đột kích vào nội địa.
Với giọng văn mộc, khỏe và hết sức chân thực của một người từng cầm súng rồi cầm bút, tác giả cho ta thấy được những hy sinh và gian khổ của họ, sự ác liệt của chiến trường, xương máu và những vết thương hằn sâu trong tâm khảm. Thế nhưng vượt lên trên đạn bom, mất mát và khó nhọc, người lính vẫn cười vẫn hát, vẫn bày trò tếu táo chọc phá nhau, vẫn thấy được những mảnh bình yên, và luôn mong ước về hòa bình cho cả hai đất nước.
Nhà văn Đoàn Tuấn không tập trung vào những diễn biến của cuộc chiến, mà mang đến những lát cắt trong sinh hoạt đời thường của người lính. Ông không làm nổi bật khía cạnh anh hùng, không kể nhiều về những chiến công, mà kể những câu chuyện nhỏ đáng nhớ trong những ngày đồng đội sinh hoạt, chiến đấu và hy sinh bên nhau. Những mẩu chuyện tưởng như vụn vặt nhưng đầy sự chắt chiu, thể hiện được nhiều khía cạnh về “con người” đằng sau “người lính”.
Những trang viết của nhà văn Đoàn Tuấn cũng như thế, không chỉ có tiếng súng mà còn có cả chuyện tình và… “mắm bò hóc”. Bạn đọc được gặp những người lính qua những biệt danh hài hước (Thành giun, Thành béo, Vinh con, Sanh điếc…), những trò tếu táo chọc phá nhau, những bữa ăn uống, cuộc trò chuyện, cách giải khuây trên đường chinh chiến. Họ chiến đấu trong bom đạn, nhưng họ vẫn cười nói, vẫn hát ca, vẫn giữ trong mình những cảm xúc ấm áp và dịu dàng. Giữa cái khắc nghiệt của chiến trường, những khoảnh khắc bình thường trở nên vô cùng quý báu và thân thương.
Nhiều câu chuyện thể hiện khiếu hài hước đặc biệt của tác giả. Như trong câu chuyện về “Thành giun”, hình ảnh con yểng bắt chước tiếng người, học được tên của tiểu đội trưởng Thành giun và kêu tên anh không đúng lúc đúng chỗ, khiến cả đội cười vỡ bụng, đã cho độc giả thấy hình ảnh lạc quan của người lính dẫu cái chết rình rập từng phút, từng giây.
Qua những câu chuyện đời thường được nhà văn kể lại, chúng ta không chỉ thấy được tình đồng đội giữa những người lính, mà còn thấy được tình cảm giữa quân đội Việt Nam với người dân Khmer bình thường. Họ trao đổi với nhau những vật dụng trong đời sống, tặng quà cho nhau, trò chuyện với nhau, và đôi khi cũng có chút tình cảm nảy nở giữa người trai và người gái ở hai dân tộc.
Nhà văn Đoàn Tuấn có một cách kể chuyện rất duyên. Những câu chuyện, những tình tiết tưởng như bình thường, nhưng vào tay ông bỗng trở nên mới mẻ, tinh tế khác thường. Điển hình như truyện “Gà rừng”, chỉ bằng vài nét chấm phá, ông đã vẽ ra cả một hậu cảnh cho câu chuyện, “Nhớ những đêm mùa khô ở Preah Vihear, nằm trên võng, miệng khô khốc, không ngủ nổi. Nhìn vầng trăng. Cái quầng đỏ lừ như vòng lửa, ôm trọn cái đĩa sáng mờ”.
Nhà văn Đoàn Tuấn từng chia sẻ, trong chiến tranh, đau thương nhất là cái chết. Và đau nhất là cái chết của những người lính chưa kịp sống. Họ ra đi khi còn chưa biết thế nào là một buổi chiều ngồi bên bếp than hong tay, chưa biết mùi khói rơm quyện trong chiều, chưa kịp cầm tay một người con gái.
“Tôi ký họa, khắc họa họ bằng ngôn ngữ, thứ duy nhất tôi có. Tôi viết để giữ họ lại, để họ không tan biến trong im lặng, không bị lãng quên giữa dòng đời hối hả. Viết, như một cách thắp lên một nén nhang vô hình”, nhà văn Đoàn Tuấn viết.
Bằng sự chân thực, giản dị và tinh tế, tập bút ký "Những ngọn khói bên đường" vừa là lời nhắn gửi của một người đi trước đến thế hệ sau về cái giá của hòa bình, vừa là lời hứa với những người đã mất rằng thế hệ sau sẽ ghi nhớ và nỗ lực gìn giữ thành quả của họ.