Để có nguồn lực phát triển doanh nghiệp, ông Đinh Duy Hưng, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty TNHH Duy Hưng đã vay vốn tại bốn ngân hàng khác nhau. Tại bốn ngân hàng này, công ty đều phải mua thêm gói bảo hiểm mà ngân hàng yêu cầu. Ông Hưng bức xúc: “Số tiền dùng để mua bốn gói bảo hiểm là không nhỏ, trong khi, nếu được sử dụng để bổ sung vốn cho doanh nghiệp thì sẽ mang lại hiệu quả thiết thực hơn. Doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận vốn vay”.
Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Đầu tư Thương mại Hà Thành Nguyễn Đức Xuân chia sẻ, doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể được ngân hàng hỗ trợ nhiệt tình để mở tài khoản ở ngân hàng, nhưng để vay vốn thì không dễ dàng. Nếu công ty trúng hai, ba gói thầu cung cấp thiết bị y tế trị giá khoảng 50 tỷ đồng, nhưng vì không có vốn, cho nên phải vay ngân hàng. Tuy nhiên, do không có tài sản bảo đảm, vì thế việc tiếp cận nguồn vốn là rất khó khăn. Ngoài sử dụng tài sản bảo đảm, ngân hàng có thêm phương án khác là yêu cầu doanh nghiệp chứng minh được việc trúng thầu. Nhưng việc chứng minh cũng không đơn giản, bởi chủ đầu tư không thể đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp trúng thầu vay vốn.
Theo khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Hà Nội năm 2024, có đến 67% số doanh nghiệp hội viên cho biết gặp rất nhiều trở ngại khi tiếp cận vốn vay, trong đó chủ yếu là thiếu tài sản bảo đảm, lãi suất cao và quy trình xét duyệt hồ sơ kéo dài, phức tạp…
Một thực tế là phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa có khả năng chứng minh hiệu quả kinh doanh một cách minh bạch và khoa học qua hệ thống báo cáo tài chính đạt chuẩn. Khoảng 60% số doanh nghiệp đó chưa thực hiện kiểm toán độc lập, nhiều đơn vị vẫn sử dụng sổ sách kế toán nội bộ không đáp ứng chuẩn mực theo yêu cầu của ngân hàng; đây là nguyên nhân khiến ngân hàng gặp khó khăn trong việc định giá mức độ rủi ro tín dụng và thường từ chối cấp vốn hoặc chỉ phê duyệt ở mức thấp.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa rất cần vốn trung và dài hạn, nhưng thực tế cho thấy, 80% số khoản vay các doanh nghiệp nhận được chỉ có kỳ hạn dưới 12 tháng, không đủ thời gian để triển khai đầu tư hiệu quả. Các doanh nghiệp có nhu cầu lớn đối với các khoản vay từ 3 đến 5 năm với lãi suất ổn định, không quá biến động như hiện nay.
Trước thực trạng này, Nghị quyết số 68-NQ/TW ra đời được cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn vay. Một trong các nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 68 là đẩy mạnh và đa dạng hóa nguồn vốn cho kinh tế tư nhân. Nghị quyết cũng yêu cầu “ưu tiên một phần nguồn tín dụng thương mại” và phát triển tín dụng xanh, tín dụng chuỗi cung ứng, cho vay dựa trên dòng tiền. Điều này mở lối cho mô hình chấm điểm tín dụng số, giảm lệ thuộc tài sản thế chấp, phù hợp đặc thù doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp dịch vụ, công nghệ… có ít tài sản hữu hình. Thực hiện Nghị quyết số 68 cũng như các chương trình hỗ trợ của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đang tập trung các giải pháp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo bà Bùi Anh Thư, đại diện BIDV, hiện tại đơn vị có các gói tín dụng ưu đãi đặc biệt hỗ trợ vốn lưu động, bổ sung vốn thiếu hụt, đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh với lãi suất cạnh tranh và thủ tục nhanh chóng; hỗ trợ lãi suất theo Nghị quyết số 68, áp dụng chính sách hỗ trợ lãi suất 2%/năm từ ngân sách nhà nước thông qua BIDV, giúp giảm đáng kể gánh nặng chi phí vay vốn đối với doanh nghiệp đủ điều kiện.
Giám đốc Phát triển Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á Triệu Anh Minh cho biết, VietABank đã ký hợp đồng khung cho vay gián tiếp với Quỹ Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ưu đãi và các giải pháp tài chính hiệu quả. Nhờ đó, doanh nghiệp có thể dễ dàng vay vốn với lãi suất hấp dẫn chỉ từ 1,2%/năm cho ngắn hạn và 4,4%/năm cho trung, dài hạn. Đồng thời, VietABank cũng triển khai chương trình “Đồng hành cùng doanh nghiệp nhỏ và vừa” với tổng hạn mức ưu đãi lên đến 500 tỷ đồng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Để hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp tư nhân theo hình thức bảo lãnh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Hà Nội Mạc Quốc Anh kiến nghị, cần tăng nguồn vốn điều lệ cho các quỹ bảo lãnh tín dụng và khuyến khích doanh nghiệp lớn tham gia bảo lãnh chuỗi giá trị cung ứng. Mô hình “doanh nghiệp bảo lãnh doanh nghiệp” trong chuỗi cung ứng nên được thể chế hóa. Thí dụ, các doanh nghiệp đầu chuỗi có thể bảo lãnh cho nhà cung cấp nhỏ nhận vốn để sản xuất theo hợp đồng. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế “chia sẻ rủi ro” giữa ngân hàng- Quỹ bảo lãnh-Chính phủ. Có như vậy, việc hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp mới đạt hiệu quả hơn ■