May quần áo xuất khẩu tại Nhà máy may Hòa Thọ (Quảng Ngãi).
May quần áo xuất khẩu tại Nhà máy may Hòa Thọ (Quảng Ngãi).

Doanh nghiệp nỗ lực mở rộng thị trường

Giữa bối cảnh kinh tế thế giới đầy biến động với những rủi ro từ địa chính trị, chuỗi cung ứng thay đổi nhanh chóng và lạm phát kéo dài, các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước áp lực phải đổi mới mạnh mẽ mô hình kinh doanh, mở rộng thị trường để duy trì tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Tuy nhiên, việc phụ thuộc vào một số thị trường xuất khẩu chính, tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu thấp cùng hệ thống pháp lý chưa đồng bộ cũng khiến nhiều doanh nghiệp khó thích nghi, chưa đáp ứng tốt yêu cầu mới của thị trường bên ngoài.

Áp lực đổi mới

Theo đánh giá của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các doanh nghiệp Việt Nam hiện đối diện nhiều khó khăn cả ở thị trường trong nước và quốc tế. Nhu cầu tiêu dùng giảm tại các nền kinh tế lớn, chi phí logistics tăng cao, trong khi các rào cản phi thuế quan ở Mỹ, EU ngày càng khắt khe, buộc doanh nghiệp phải tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn về môi trường, xã hội và quản trị.

Trong 7 tháng đầu năm 2025, cả nước có tới 144 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 15,1% so với cùng kỳ, trung bình mỗi tháng có hơn 20 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động, cho thấy sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trong bối cảnh đó, nếu các doanh nghiệp không nhanh chóng tìm hướng đổi mới động lực tăng trưởng, nguy cơ mất lợi thế cạnh tranh, thậm chí tụt hậu là điều khó tránh khỏi.

Ngành dệt may - một trong những ngành xuất khẩu chủ lực đang đối diện rõ nhất với thách thức từ thị trường hiện nay khi tỷ lệ nội địa hóa mới đạt 45-50%, phần lớn nguyên liệu vẫn nhập khẩu, dẫn đến phụ thuộc lớn vào nguồn cung nước ngoài. Tương tự, ngành điện tử cũng phụ thuộc tới 89% đầu vào, dẫn đến giá trị gia tăng nội địa thấp và dễ tổn thương trước biến động toàn cầu.

Tổng Giám đốc Tập đoàn Hồ Gươm Phí Ngọc Trịnh cho biết, đơn hàng xuất khẩu sang Mỹ, EU đã giảm mạnh từ quý III, trong khi đơn hàng cho quý IV đang khan hiếm do biến động thuế quan, buộc doanh nghiệp phải tìm hướng mở rộng sang Liên bang Nga, Brazil và một số thị trường mới nhằm đa dạng hóa khách hàng.

Việc quá phụ thuộc vào một số thị trường lớn, cùng sự cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng, đòi hỏi doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam phải đầu tư mạnh chuyển đổi xanh và số hóa.

Phó Chủ tịch VCCI Hoàng Quang Phòng

Phó Chủ tịch VCCI Hoàng Quang Phòng nhấn mạnh, việc quá phụ thuộc vào một số thị trường lớn, cùng sự cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng, đòi hỏi doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam phải đầu tư mạnh chuyển đổi xanh và số hóa. Theo đó, việc ứng dụng công nghệ số giúp doanh nghiệp rút ngắn chuỗi giá trị, giảm chi phí trung gian, tiếp cận trực tiếp khách hàng toàn cầu và nâng cao khả năng quản lý rủi ro. Đây cũng là cách để doanh nghiệp trở nên linh hoạt hơn, thích ứng nhanh với biến động cung cầu.

Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần xây dựng kế hoạch tìm kiếm các thị trường mới gắn liền với quá trình tái cơ cấu ngành hàng xuất khẩu để ứng phó hiệu quả với rủi ro thuế quan, những bất định của kinh tế toàn cầu. Khai thác hiệu quả những dư địa và lợi thế này sẽ giúp các doanh nghiệp đa dạng thị trường xuất khẩu, giảm rủi ro.

Liên kết và hợp tác

Để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững hơn 8% trong năm như mục tiêu Chính phủ đề ra, theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, Chính sách công thương, các doanh nghiệp Việt Nam cần nhiều giải pháp tổng hợp hơn là chỉ nỗ lực đơn lẻ. Trong đó, cần phối hợp đồng bộ giữa doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng, chuyên gia và cơ quan quản lý nhằm củng cố nền tảng, nâng cao sức chống chịu, đồng thời, tận dụng triệt để các hiệp định thương mại tự do (FTA) để tiếp cận thị trường mới. Những FTA như CPTPP, EVFTA, RCEP không chỉ đem lại ưu đãi thuế quan mà còn đặt ra chuẩn mực mới về quản trị, môi trường và lao động, buộc doanh nghiệp phải nâng cấp năng lực để hội nhập sâu hơn.

Các doanh nghiệp Việt Nam cần nhiều giải pháp tổng hợp hơn là chỉ nỗ lực đơn lẻ. Trong đó, cần phối hợp đồng bộ giữa doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng, chuyên gia và cơ quan quản lý nhằm củng cố nền tảng, nâng cao sức chống chịu, đồng thời, tận dụng triệt để các hiệp định thương mại tự do (FTA) để tiếp cận thị trường mới.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Hội,

Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, Chính sách công thương

Còn theo Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội, doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường kết nối, xây dựng hệ sinh thái chuỗi cung ứng tự chủ để giảm rủi ro từ xung đột địa chính trị. Việc tìm ra các doanh nghiệp “đầu đàn” dẫn dắt chuỗi cung ứng, kết hợp với cơ chế hỗ trợ từ Nhà nước, sẽ tạo nên mối liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp lớn và nhỏ, hình thành hệ sinh thái kinh doanh bền vững và hiệu quả.

Nhiều chuyên gia kinh tế cũng nhấn mạnh, thay vì chỉ chạy đua con số xuất khẩu, doanh nghiệp Việt cần tập trung nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng. Việc tăng tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu sản xuất sẽ giúp giảm phụ thuộc vào nhập khẩu, nhất là ở các ngành do doanh nghiệp FDI chi phối. Bên cạnh đó, phát triển xuất khẩu dịch vụ - từ du lịch số hóa đến dịch vụ công nghệ - sẽ tạo thêm động lực mới cho tăng trưởng bền vững.

Chiến lược tiếp cận thị trường cũng cần mang tính phân loại. Với các thị trường phát triển, yêu cầu về môi trường, lao động và minh bạch chuỗi cung ứng phải được đặt lên hàng đầu. Trong khi đó, với thị trường mới nổi, doanh nghiệp có thể tận dụng lợi thế giá cả và sự linh hoạt, kết hợp xúc tiến thương mại mạnh mẽ để mở rộng thị phần. Trên nền tảng đó, doanh nghiệp sẽ giảm dần phụ thuộc vào gia công, xuất thô, chuyển sang đầu tư cho nghiên cứu, phát triển sản phẩm và đổi mới quản trị để tạo ra giá trị gia tăng cao hơn.

Để những nỗ lực của doanh nghiệp trở thành hiện thực, sự đồng hành từ Nhà nước rất quan trọng, nhất là việc hoàn thiện thể chế, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực quản lý, tạo lập môi trường kinh doanh minh bạch, thuận lợi. Song song đó là phát triển hạ tầng logistics, cảng biển, khu thương mại tự do, hệ thống vận tải đa phương thức để giảm chi phí lưu thông hàng hóa.

Việc tiếp tục ban hành các chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ tài chính, khuyến khích nghiên cứu và phát triển cũng sẽ giúp doanh nghiệp có thêm điều kiện đầu tư cho đổi mới sáng tạo. Triển khai hiệu quả các giải pháp đồng bộ nêu trên không chỉ giúp doanh nghiệp Việt Nam vượt qua thách thức hiện tại mà còn khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu, tiếp tục đóng góp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế đất nước trong giai đoạn hội nhập ngày càng sâu rộng.

Xem thêm