Thụy Điển là một quốc gia phúc lợi toàn diện, chi tiêu công rất cao cho phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và đạt nhiều thành tựu cao về phát triển con người, bình đẳng và tiến bộ xã hội trong nhiều năm qua.
Hệ thống phúc lợi của Thụy Điển xây dựng trên nguyên tắc phổ quát, tức là mọi công dân đều được bảo đảm các quyền an sinh cơ bản như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội...
Bảo đảm an sinh xã hội
Ngay từ những năm 50-60 của thế kỷ trước, Thụy Điển đã thiết lập các chế độ bảo hiểm hưu trí, ốm đau, trợ cấp gia đình... mang tính bắt buộc, bao phủ rộng rãi toàn dân.
Đến năm 2001, Luật Bảo hiểm xã hội của Thụy Điển ra đời, khẳng định lại nguyên tắc an sinh là quyền công dân phổ quát cho mọi người. Một chính sách áp dụng toàn dân, tạo ra sự đồng nhất rất to lớn và được tất cả mọi người cùng tham gia, có ý nghĩa to lớn.
Hệ thống phúc lợi Thụy Điển vận hành trên nền một bộ máy hành chính hiệu quả, phân cấp rõ ràng. Chính quyền trung ương thiết lập khung pháp lý và các chương trình quốc gia (thí dụ: bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm y tế, trợ cấp trẻ em), đồng thời có các cơ quan chuyên trách thực thi (cơ quan bảo hiểm xã hội, cơ quan thuế…).
Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm cung cấp trực tiếp nhiều dịch vụ phúc lợi thiết yếu gắn với người dân: Giáo dục phổ thông, nhà trẻ, chăm sóc người già và người khuyết tật, trợ giúp xã hội, y tế công cộng địa phương.
Một điểm then chốt là Thụy Điển có hệ thống dữ liệu dân sự tập trung do cơ quan thuế Thụy Điển quản lý. Bên cạnh đó, cơ quan này cũng vừa đảm nhận thu thuế, vừa thu các khoản an sinh xã hội (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp).
Do vậy, việc quản lý, vận hành các chương trình phúc lợi, an sinh rất hiệu quả với mức độ tự động hóa cao. Khoảng 99% các khoản trợ cấp trẻ em được chi trả tự động; khoảng 70% số hồ sơ bảo hiểm cha mẹ được xử lý tự động qua hệ thống công nghệ thông tin và dữ liệu tập trung.
Thụy Điển nằm trong nhóm quốc gia chi tiêu công cho an sinh xã hội lớn nhất thế giới. Tổng chi xã hội hằng năm khoảng 25-30% GDP, trong đó chi cho hưu trí, y tế, trợ cấp xã hội... chiếm tỷ trọng đáng kể.
Thụy Điển nằm trong nhóm quốc gia chi tiêu công cho an sinh xã hội lớn nhất thế giới. Tổng chi xã hội hằng năm khoảng 25-30% GDP, trong đó chi cho hưu trí, y tế, trợ cấp xã hội... chiếm tỷ trọng đáng kể.
Nguồn thu tài chính chủ yếu đến từ hệ thống thuế toàn dân (thuế thu nhập cá nhân lũy tiến do cả trung ương và địa phương cùng thu) và đóng góp bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động. Mức thuế ở Thụy Điển rất cao (tổng thu thuế chiếm khoảng 42-44% GDP những năm gần đây).
Một khi người dân đóng góp tiền mà không được sử dụng đúng mục đích, rõ ràng, chính đáng, chi tiêu sai… thì họ sẽ không tham gia đóng góp. Vì vậy, chính sách thu, chi về tài chính của Thụy Điển rất công khai, minh bạch và được kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm nguồn lực được sử dụng đúng mục đích.
Giáo sư Andreas Bergh, ở Đại học tổng hợp Lund và Viện nghiên cứu kinh tế (IFN) tại Stockholm)
Khi được hỏi vì sao nhân dân Thụy Điển vẫn vui vẻ đi làm khi bị đánh thuế cao thì giáo sư Andreas Bergh, ở Đại học tổng hợp Lund và Viện nghiên cứu kinh tế (IFN) tại Stockholm, cho rằng: Một khi người dân đóng góp tiền mà không được sử dụng đúng mục đích, rõ ràng, chính đáng, chi tiêu sai… thì họ sẽ không tham gia đóng góp. Vì vậy, chính sách thu, chi về tài chính của Thụy Điển rất công khai, minh bạch và được kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm nguồn lực được sử dụng đúng mục đích.
Hướng đến lợi ích của người dân
Hiện nay, một số nước ASEAN đã thiết lập được hệ thống bảo hiểm y tế toàn dân mức tối thiểu (Thái Lan, Malaysia, Việt Nam) hoặc hệ thống tiết kiệm bắt buộc (CPF Singapore).
Việt Nam, Indonesia đang thúc đẩy mở rộng bảo hiểm xã hội tự nguyện nhưng tỷ lệ bao phủ thực tế còn thấp.
Theo Giáo sư Anders Lindbom, Đại học Uppsala (Thụy Điển), các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, cần lộ trình linh hoạt nhưng vẫn cần chủ động “không đợi giàu mới làm phúc lợi” như kinh nghiệm của Thụy Điển (Thụy Điển đã triển khai chính sách lương hưu toàn dân từ năm 1913 khi thu nhập còn thấp) và xác định thứ tự ưu tiên phù hợp từng chính sách.
Giai đoạn đầu, nên tập trung đầu tư phúc lợi vào những lĩnh vực phúc lợi xã hội cơ bản, cấp thiết nhất, tạo động lực cho phát triển bền vững như giáo dục, y tế.
Việt Nam cần tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng bao trùm, toàn diện để từng bước nâng cao tích lũy nguồn lực của nhà nước và xã hội, tiến tới xây dựng, phát triển hệ thống phúc lợi toàn dân trong dài hạn.
Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Lâm Văn Đoan, Việt Nam hiện nay có mức thu nhập trung bình thấp, cần mô hình phúc lợi “hỗn hợp” phù hợp bối cảnh, mở rộng dần theo lộ trình. Kinh nghiệm Thụy Điển cho thấy, phúc lợi tốt có thể thúc đẩy sáng tạo và năng suất, tạo nền tảng nhân lực chất lượng cho tăng trưởng. Do đó, Việt Nam hiện nay đã bước đầu ưu tiên phổ cập dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu như y tế, giáo dục cho toàn dân.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách tiếp cận có chọn lọc cho một số lĩnh vực để tăng mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho người dân tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp; phát triển nhà ở xã hội, giảm nghèo bền vững; phát huy vai trò khu vực tư nhân và cộng đồng tham gia cung cấp phúc lợi (bảo hiểm hưu trí, y tế bổ sung), hỗ trợ các sáng kiến xã hội của cộng đồng, qua đó đa dạng hóa nguồn lực cho thực hiện phúc lợi xã hội.