Diễn đàn Nhân dân Việt-Nga lần thứ nhất đã mở ra nhiều cơ hội hợp tác trong các lĩnh vực hai bên có thế mạnh.
Diễn đàn Nhân dân Việt-Nga lần thứ nhất đã mở ra nhiều cơ hội hợp tác trong các lĩnh vực hai bên có thế mạnh.

Hiện thực hóa cơ hội, đưa các kế hoạch hợp tác Việt Nam-Liên bang Nga đi vào thực chất

Với nội dung, phong phú đa dạng, Diễn đàn Nhân dân Việt-Nga lần thứ nhất đã mở ra nhiều cơ hội hợp tác trong các lĩnh vực hai bên có thế mạnh. Đây cũng được coi là những động lực mới, góp phần hiện thực hóa cơ hội, đưa các kế hoạch hợp tác Việt Nam-Liên bang Nga đi vào thực chất.

Văn hóa, giáo dục, nghệ thuật - Cầu nối nhân dân hai nước Việt Nam và Liên bang Nga

Đó là nhận định của bà Mai Nguyễn Tuyết Hoa, Bí thư thứ nhất phụ trách giáo dục, đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam tại Liên bang Nga tại Hội thảo “Văn hóa, giáo dục, nghệ thuật: Kết nối di sản và tương lai”- sự kiện nằm trong khuôn khổ Diễn đàn Nhân dân Việt-Nga lần thứ nhất.

Nhấn mạnh đối ngoại nhân dân là trụ cột bổ trợ quan trọng cho ngoại giao nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa và giáo dục, bà Mai Nguyễn Tuyết Hoa cho rằng, sự kết hợp giữa hai lĩnh vực văn hóa-giáo dục trong ngoại giao nhân dân có ý nghĩa quan trọng. Giáo dục là con đường truyền tải văn hóa hiệu quả nhất và văn hóa là nền tảng làm phong phú thêm đời sống tinh thần trong môi trường giáo dục.

vanhoa2.png
Toàn cảnh Hội thảo “Văn hóa, giáo dục, nghệ thuật: Kết nối di sản và tương lai” - sự kiện trong khuôn khổ Diễn đàn Nhân dân Việt-Nga lần thứ nhất.

Để minh chứng cho nhận định giáo dục là con đường truyền tải văn hóa hiệu quả nhất và văn hóa là nền tảng, làm phong phú thêm đời sống tinh thần trong môi trường giáo dục, bà Mai Nguyễn Tuyết Hoa cho biết: Tại Nga, các hoạt động quảng bá văn hóa Việt Nam được triển khai đa dạng, phong phú như các sự kiện “Ngày Việt Nam” tại các trường đại học lớn, lễ hội văn hóa-nghệ thuật, chuỗi chương trình tôn vinh tiếng Việt, cũng như các diễn đàn học thuật và nghệ thuật. Những hoạt động này không chỉ giúp bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về đất nước, văn hóa và con người Việt Nam, mà còn tạo cơ hội để du học sinh Việt rèn luyện kỹ năng, nuôi dưỡng niềm tự hào dân tộc và trở thành đại sứ văn hóa trong môi trường quốc tế.

Bên cạnh đó, Lễ hội Văn hóa Việt Nam 2025 với chủ đề "Việt Nam - Sắc màu từ miền nhiệt đới" tại Quảng trường Đỏ, Moscow diễn ra vào tháng 7/2025 đã thu hút gần 1 triệu lượt khách tham quan, khẳng định sức lan tỏa của ngoại giao văn hóa trong việc tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Các chương trình đối thoại, gặp gỡ giữa trí thức, nghệ sĩ, chính trị gia cũng góp phần kết nối các thế hệ, khơi dậy cảm hứng và định hướng cho thế hệ trẻ Việt Nam tại Nga.

Khẳng định văn hóa, giáo dục, nghệ thuật là cầu nối quan trọng kết nối nhân dân hai nước Việt Nam và Liên bang Nga, theo bà Mai Nguyễn Tuyết Hoa, trong thời gian tới, để tiếp tục đẩy mạnh quảng bá hình ảnh Việt Nam tại Liên bang Nga, chúng ta cần: hỗ trợ thành lập và duy trì Câu lạc bộ Văn hóa Việt Nam tại các trường đại học lớn tại Nga, tổ chức các hoạt động "Ngày Việt Nam"; phát triển "Lớp học văn hoá mở", đưa nội dung giới thiệu về Việt Nam vào các buổi học cố định tại trường phổ thông và đại học Nga; quảng bá văn hóa Việt Nam thông qua video ngắn trên nền tảng số; kết nối các cựu du học sinh Nga nhằm truyền cảm hứng, định hướng cho thế hệ du học sinh hiện tại; phối hợp chặt chẽ với các đối tác Nga ở cấp cơ sở để tổ chức các sự kiện văn hóa.

vanhoa1.png
Bà Mai Nguyễn Tuyết Hoa, Bí thư thứ nhất phụ trách giáo dục, đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam tại Liên bang Nga.

Liên quan đến lĩnh vực văn hóa-nghệ thuật, bà Albina Legostaeva - đại diện Bảo tàng quốc gia Phương Đông (Liên bang Nga) cho rằng, quảng bá nghệ thuật Việt Nam tại Nga, vốn bắt đầu từ giữa thế kỷ XX với sự đóng góp quan trọng của đối ngoại nhân dân. Bộ sưu tập các hiện vật quý từ Việt Nam tại Bảo tàng là minh chứng sinh động cho tình hữu nghị truyền thống Việt Nam-Liên bang Nga. Trong đại dịch Covid-19, hai bên đã thúc đẩy các hình thức hợp tác mới như triển lãm và hội thảo trực tuyến, đa dạng hướng hợp tác trong lĩnh vực giao lưu bảo tàng.

“Ngoại giao văn hóa và giao lưu nhân dân không chỉ là nền tảng của đối thoại chính trị-kinh tế, mà còn góp phần xây dựng hình ảnh tích cực của đất nước trên trường quốc tế. Tôi hy vọng trong tương lai, hợp tác bảo tàng Việt-Nga sẽ tiếp tục được mở rộng và đi vào chiều sâu, trở thành một kênh quan trọng trong quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Liên bang Nga”, bà Albina Legostaeva nói.

Khoa học, công nghệ, y tế - Động lực mới cho hợp tác Việt-Nga

Với vai trò là chủ trì Hội thảo "Khoa học, công nghệ, y tế: Động lực mới cho hợp tác Việt-Nga" – một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ Diễn đàn Nhân dân Việt-Nga lần thứ nhất, Giáo sư-Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, trong bối cảnh Việt Nam triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW, coi khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá chiến lược, việc tăng cường hợp tác với Nga, quốc gia có nền khoa học, công nghệ mạnh về y sinh, năng lượng, môi trường… có ý nghĩa quan trọng và đây có thể trở thành lĩnh vực then chốt, động lực mới thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Liên bang Nga.

vanhoa5.jpg
Giáo sư-Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Cung cấp thông tin tổng quan về hợp tác khoa học, công nghệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga, bà Vũ Thị Tú Quyên, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết: Việt Nam và Liên bang Nga cùng đề cao vai trò của khoa học, công nghệ và đặt ra chiến lược phát triển dài hạn. Trong đó, Nga xác định giai đoạn 2022-2031 là "thập niên khoa học và công nghệ", với mục tiêu tăng cường vai trò của khoa học trong giải quyết các nhiệm vụ quan trọng của xã hội và đất nước, đồng thời dự kiến chi tiêu nội địa cho nghiên cứu và phát triển đạt ít nhất 2% GDP vào năm 2030. Tương tự, Việt Nam ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024, xác định khoa học, công nghệ là động lực then chốt cho đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, nâng cao năng lực cạnh tranh, hướng tới mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại và đến 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.

“Hợp tác khoa học, công nghệ Việt-Nga có truyền thống lâu đời, là một phần không thể tách rời của quan hệ hữu nghị và cùng có lợi. Ngay sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao, hai bên đã ưu tiên hợp tác khoa học kỹ thuật thông qua Hiệp định năm 1959 giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Liên Xô, tiếp đó Hiệp định Hợp tác khoa học công nghệ năm 1992 giữa Việt Nam và Liên bang Nga, Hiệp định về Đối tác chiến lược trong lĩnh vực giáo dục, khoa học và công nghệ năm 2014.

Thông qua Ủy ban hỗn hợp về khoa học công nghệ Việt-Nga và Ủy ban liên chính phủ về hợp tác kinh tế thương mại và khoa học kỹ thuật Việt-Nga, hợp tác giữa hai bên đã mang lại nhiều kết quả: từ nghiên cứu cơ bản, khoa học tự nhiên, xã hội-nhân văn đến năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình, công nghệ sinh học, y học, nông nghiệp, công nghệ thông tin, tự động hóa và trí tuệ nhân tạo”, bà Vũ Thị Tú Quyên chia sẻ.

Bên cạnh hợp tác song phương, Việt Nam và Liên bang Nga còn phối hợp tại các diễn đàn đa phương như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và các tổ chức tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng.

Theo nhận định của Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế Vũ Thị Tú Quyên, trong thời gian tới, khoa học và công nghệ sẽ tiếp tục là cầu nối quan trọng thúc đẩy hiểu biết và tin cậy giữa hai nước. Theo đó, hai bên cần phát huy cơ chế Ủy ban liên Chính phủ như cơ chế định hướng chiến lược và điều phối hợp tác khoa học, công nghệ, đồng thời thúc đẩy hợp tác trong các cơ chế song phương và đa phương, khuyến khích giao lưu nhân dân, trao đổi học thuật giữa viện, trường, doanh nghiệp và tổ chức xã hội và ưu tiên hợp tác các lĩnh vực: công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, năng lượng sạch, năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình, vật liệu mới, y học tiên tiến, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ-hàng không...

Bên cạnh đó, hai bên cần tạo điều kiện để doanh nghiệp khoa học, công nghệ kết nối, khai thác thị trường lẫn nhau, cùng phát triển công nghệ mới và công nghệ chiến lược, đồng thời xây dựng trung tâm hợp tác khoa học công nghệ Việt-Nga trong các lĩnh vực ưu tiên.

vanhoa6.jpg
Tiến sĩ Khoa học Địa chất và Khoáng sản Ivan Serebritsky, Phó Chủ tịch Ủy ban Quản lý môi trường và sinh thái thành phố Saint Petersburg.

Trong số các thành tựu hợp tác trong lĩnh vực khoa học, công nghệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga, Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga là một mô hình điển hình. Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga được thành lập năm 1988 trên cơ sở Hiệp định liên Chính phủ đã ký giữa hai Nhà nước. Ngay từ đầu, Trung tâm đã phát triển 3 lĩnh vực nghiên cứu chính, xây dựng 3 phân viện tại 3 vùng của Việt Nam, đồng thời phía Nga thành lập các phòng thí nghiệm ở Moscow, trong đó có phòng thí nghiệm Dioxin với trang thiết bị hiện đại nhất thời bấy giờ. Hiện Trung tâm có 19 phòng thí nghiệm, 3 trạm thử nghiệm khí hậu, 3 trạm sinh học, 1 tàu nghiên cứu khoa học cùng gần 1.000 cán bộ, chuyên gia Việt-Nga.

Theo Tiến sĩ khoa học Andrey Nikolaievich Kuznetsov, Tổng Giám đốc phía Nga của Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga, đến nay đã có 57 tổ chức khoa học và giáo dục của Liên bang Nga tham gia hợp tác thường xuyên với Trung tâm. Các phòng thí nghiệm cố định và di động, cùng chương trình đào tạo cán bộ trình độ cao, sẽ góp phần củng cố chủ quyền quốc gia, đặc biệt trong nghiên cứu mầm bệnh tự nhiên và dự báo dịch bệnh. Tháng 5/2024, Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga đã tiếp nhận tàu nghiên cứu khoa học "Giáo sư Gagarin", mở ra giai đoạn hợp tác mới trong nghiên cứu biển và đại dương nhiệt đới.

Là thành viên của Đoàn đại biểu Liên bang Nga sang tham dự Diễn đàn Nhân dân Việt-Nga lần thứ nhất, Tiến sĩ khoa học Địa chất và Khoáng sản Ivan Serebritsky, Phó Chủ tịch Ủy ban Quản lý môi trường và sinh thái đã chia sẻ kinh nghiệm của thành phố Saint Petersburg trong xây dựng hệ thống giám sát môi trường ba cấp (trung ương, địa phương, cơ sở), qua đó gợi mở hướng hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu, đào tạo của Việt Nam và Liên bang Nga.

Tiến sĩ Ivan Serebritsky cho biết, là một thành phố đối mặt với nhiều thách thức môi trường, nên Saint Petersburg đã áp dụng chiến lược dài hạn đến năm 2035, chú trọng xây dựng văn hóa bảo vệ môi trường và huy động sự tham gia của toàn xã hội.

Cụ thể, thành phố đã di dời hàng chục cơ sở công nghiệp khỏi trung tâm, chuyển hoàn toàn sang sử dụng khí tự nhiên, đồng thời vận hành hệ thống quan trắc không khí với 27 trạm tự động đo hơn 20 chỉ số, hoạt động 24/7 với chu kỳ 20 phút/lần, cùng một số trạm di động có thể theo dõi tới 140 chỉ số. Người dân có thể gửi khiếu nại về môi trường qua cả kênh điện tử và truyền thống. Mỗi năm chính quyền tiếp nhận khoảng 1.100 phản ánh, chủ yếu liên quan tới chất lượng không khí. Ủy ban liên ngành về môi trường, gồm cả đại diện chính quyền Trung ương và thành phố, đã giúp xử lý nhanh các vấn đề. Kết quả rõ rệt là số khiếu nại về mùi lạ, khó chịu giảm 30% trong giai đoạn 2023-2024.

“Hiện nay, Saint Petersburg còn ứng dụng trí tuệ nhân tạo, tích hợp dữ liệu từ hàng nghìn camera giao thông để đánh giá chất lượng không khí theo thời gian thực. Kết quả cho thấy chất lượng không khí đã đạt mức an toàn, chứng minh nỗ lực kết hợp công nghệ, quản lý và sự đồng thuận xã hội trong bảo vệ môi trường”, Tiến sĩ Ivan Serebritsky cho biết thêm.

vanhoa7.jpg
Tại Hội thảo "Khoa học, công nghệ, y tế: Động lực mới cho hợp tác Việt-Nga", lãnh đạo Bệnh viện Hữu nghị và Trung tâm Ung bướu Napalkov ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác.

Đối với lĩnh vực y tế, chỉ ra những tiềm năng hợp tác giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong đó có việc đẩy mạnh hợp tác trong khám và điều trị ung thư, Giáo sư-Tiến sĩ Y khoa Vladimir Moiseenko, Giám đốc Trung tâm Ung bướu Napalkov, Bác sĩ Nhân dân Liên bang Nga, Thành viên Thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Nga cảnh báo sự chi phối của các tập đoàn dược trong điều trị ung thư, khiến chi phí điều trị quá cao trong khi hiệu quả còn hạn chế.

Từ thực tế đó, Giáo sư Vladimir Moiseenko đề nghị trong thời gian tới, Việt Nam và Nga phối hợp nghiên cứu, tối ưu hóa phác đồ điều trị để nâng cao hiệu quả và giảm gánh nặng tài chính cho bệnh nhân.

Dựa vào những thành tựu hợp tác trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, y tế giữa Việt Nam và Liên bang Nga, một lần nữa, Giáo sư-Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội khẳng định, tiềm năng và dư địa hợp tác trong các lĩnh vực trên là rất lớn, đặc biệt trong các lĩnh vực y tế, du lịch, công nghệ mới và đào tạo nhân lực. Để khai thác tối đa các tiềm năng, theo Giáo sư Nguyễn Đình Đức, hai bên cần tổ chức thêm các diễn đàn chuyên đề sâu để hiện thực hóa cơ hội, đưa các kế hoạch hợp tác Việt-Nga đi vào thực chất.

Xem thêm