Cán bộ kỹ thuật Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu 2-9 Đắk Lắk hướng dẫn nông dân chăm sóc cây cà-phê.
Cán bộ kỹ thuật Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu 2-9 Đắk Lắk hướng dẫn nông dân chăm sóc cây cà-phê.

Nông dân trên hành trình chuyên nghiệp và hiện đại

Bài 3: Sẵn sàng “chạy đà” và “cất cánh”

Trong chiến lược phát triển nông nghiệp hiện đại của Việt Nam, một yêu cầu cấp thiết được đặt ra là hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, thông minh, đáp ứng yêu cầu của nông nghiệp 4.0. 

Muốn thực hiện yêu cầu này, cần có những giải pháp mang tính hệ thống, đồng bộ từ Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và khoa học-công nghệ với các chính sách cụ thể về đào tạo, phát triển hạ tầng dữ liệu số, hỗ trợ tài chính và khuyến khích đổi mới.

Tăng năng lực tài chính, đa đạng loại hình đào tạo

Chủ tịch Hội Nông dân thành phố Cần Thơ Nguyễn Văn Sử cho rằng, để công nghệ thật sự phục vụ người nông dân đại trà cần có cơ chế hỗ trợ tài chính, mô hình dịch vụ chia sẻ, chương trình đào tạo quy mô và bổ sung nội dung hỗ trợ công nghệ cao trong chương trình khuyến nông, thử nghiệm các mô hình tổ dịch vụ droneIoT.

Có thể nghiên cứu cơ chế tín dụng ưu đãi dành riêng cho nông dân muốn đầu tư công nghệ vào sản xuất như: nhà màng, hệ thống tưới tự động, máy sấy, phần mềm quản lý..., kết hợp với chính sách bảo hiểm nông nghiệp dựa trên dữ liệu số để giảm thiểu rủi ro. Đồng thời, nông dân cần được khuyến khích đổi mới sáng tạo thông qua quỹ hỗ trợ các doanh nghiệp cung cấp giải pháp nông nghiệp số.

Về phương thức cho vay, theo Giám đốc Ngân hàng Agribank chi nhánh Vĩnh Thạnh Cần Thơ II (thành phố Cần Thơ) Nguyễn Phong Vũ, giữa tháng 6 vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 156/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Theo đó, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, chủ trang trại, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được tổ chức tín dụng xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm theo mức tối đa 300 triệu đồng đối với cá nhân, hộ gia đình; tối đa 500 triệu đồng đối với tổ hợp tác, hộ kinh doanh; tối đa 3 tỷ đồng đối với chủ trang trại; tối đa 5 tỷ đồng đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Việc nâng hạn mức cho vay không có tài sản bảo đảm sẽ tạo điều kiện để người dân đầu tư mở rộng quy mô sản xuất.

Để công nghệ thật sự phục vụ người nông dân đại trà cần có cơ chế hỗ trợ tài chính, mô hình dịch vụ chia sẻ, chương trình đào tạo quy mô và bổ sung nội dung hỗ trợ công nghệ cao trong chương trình khuyến nông, thử nghiệm các mô hình tổ dịch vụ droneIoT.

Chủ tịch Hội Nông dân thành phố Cần Thơ Nguyễn Văn Sử

Tuy nhiên, không phải nông dân nào cũng “dám” vay một nguồn vốn lớn để đầu tư công nghệ cao, bởi cái họ thiếu không chỉ là tiền mà còn là kỹ năng vận hành công nghệ, kỹ năng quản trị rủi ro đầu tư. Do đó, hệ thống chính sách cần đặt đào tạo nghề nông gắn với đào tạo kỹ năng số ở vị trí trung tâm. Nội dung đào tạo không chỉ giới hạn ở kỹ thuật canh tác mà mở rộng sang quản lý dữ liệu, phân tích thị trường và kỹ năng kinh doanh số.

Hiện nay, nhiều người trẻ khởi nghiệp ở lĩnh vực nông nghiệp cũng đã tìm đến các các khóa đào tạo của chính những chủ vườn đã thành công để học hỏi kinh nghiệm. Anh Nguyễn Đức Huy, chủ trang trại rau, củ, quả ở Đà Lạt, “chủ nhân” phần mềm quản lý trang trại từ xa VietPorics Control System cho biết: Tôi đang tổ chức các khóa đào tạo nông nghiệp thông minh ngắn hạn theo module ngay tại farm; chuyển giao công nghệ theo dạng module khắc phục được khó khăn về chi phí đầu tư ban đầu do không chuyển giao cả một gói công nghệ phức tạp, tốn kém mà chia nhỏ thành các bước, module riêng biệt để nông dân có thể tiếp cận dần dần, phù hợp với năng lực vốn, trình độ và nhu cầu.

Qua đó, nhiều bạn trẻ đã tự lập trang trại sản xuất ở quê nhà, khi làm tốt một module hoàn chỉnh, có thể tiếp nối những module khác để tạo ra trang trại lớn. Anh Bùi Cát Tín ở xã Nghĩa Dũng, tỉnh Quảng Ngãi cho biết: “Tôi được anh Huy đào tạo khóa ngắn hạn hơn một tháng, nay đã mở được trang trại “Vườn rau 4K” đa chủng loại rau, củ, quả, bước đầu bảo đảm được kinh tế gia đình”.

Phát triển hạ tầng và dữ liệu số

Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, muốn chuyển đổi số đến từng nông dân đòi hỏi phải có hạ tầng số đồng bộ, hiện đại và hệ thống dữ liệu cây trồng, vật nuôi, văn bản chính sách đã được số hóa hoàn chỉnh. Tuy nhiên, hạ tầng công nghệ số còn lạc hậu, chi phí dịch vụ viễn thông cao, chưa tạo cơ hội cho nông dân ở vùng sâu, vùng xa kết nối trực tiếp với hệ thống thương mại điện tử, gây khó khăn trong việc tiếp cận cũng như ứng dụng công nghệ số vào sản xuất, kinh doanh nông nghiệp.

Phó Giám đốc Phụ trách Trung tâm Đào tạo nông dân (Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn), Tiến sĩ Lê Hữu Quang cho rằng, Nhà nước cần ưu tiên phát triển viễn thông, internet tốc độ cao ở nông thôn, đầu tư vào các nền tảng dữ liệu số phục vụ sản xuất nông nghiệp, bảo đảm dữ liệu được chia sẻ minh bạch, dễ tiếp cận và kịp thời; xây dựng hệ sinh thái dữ liệu mở về khí tượng, đất đai, dịch bệnh, giá cả và thị trường nông sản. Đây chính là “tài nguyên dữ liệu” giúp nông dân ra quyết định dựa trên thông tin khoa học thay vì cảm tính. Nếu thiếu dữ liệu, tình trạng “trồng-chặt”, “chặt-trồng” vẫn sẽ tiếp diễn.

“Hiện nay, chúng ta mới chỉ có dữ liệu thống kê về dân số nông thôn, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, số lượng hộ nông nghiệp... mà chưa có cơ sở dữ liệu chuyên biệt về người nông dân như: thống kê số người thật sự là nông dân theo tiêu chí cơ bản (trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp và lấy hoạt động này làm sinh kế chính); số nông dân đạt đến mức chuyên nghiệp (có nghề, hành nghề ổn định, có đạo đức nghề); số nông dân đạt đến mức “thông minh” (ứng dụng hiệu quả công nghệ số trong chuỗi giá trị nông nghiệp).

Khi lấp được khoảng trống dữ liệu này, Nhà nước và các địa phương có thể nhận diện chính xác quy mô, cấu trúc và chất lượng của đội ngũ nông dân, từ đó hoạch định chính sách sát thực tế, theo dõi quá trình chuyển dịch từ “truyền thống” sang “chuyên nghiệp” và tiến tới “thông minh”. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để thiết kế các gói hỗ trợ, đào tạo, tín dụng và chuyển giao công nghệ phù hợp từng nhóm nông dân, tránh tình trạng dàn trải và kém hiệu quả”, ông Quang nhận định.

Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, muốn chuyển đổi số đến từng nông dân đòi hỏi phải có hạ tầng số đồng bộ, hiện đại và hệ thống dữ liệu cây trồng, vật nuôi, văn bản chính sách đã được số hóa hoàn chỉnh. Tuy nhiên, hạ tầng công nghệ số còn lạc hậu, chi phí dịch vụ viễn thông cao, chưa tạo cơ hội cho nông dân ở vùng sâu, vùng xa kết nối trực tiếp với hệ thống thương mại điện tử, gây khó khăn trong việc tiếp cận cũng như ứng dụng công nghệ số vào sản xuất, kinh doanh nông nghiệp.

Trong hành trình chuyển mình của nông nghiệp Việt Nam, hình ảnh và vai trò của người nông dân ngày càng được khắc họa đậm nét khi họ không chỉ sản xuất đơn thuần mà còn từng bước làm chủ tri thức và công nghệ. Từ những trang trại thông minh ở Tây Nguyên, những cánh đồng công nghệ ở Đồng bằng sông Cửu Long đến những chợ nông sản online..., người nông dân đều đã đứng ở vị thế trung tâm, chủ thể. Khi được tiếp sức đúng cách với cơ chế tài chính, giải pháp công nghệ, được đào tạo nghề bền vững, những nỗ lực đơn lẻ sẽ kết thành sức mạnh cộng hưởng để nông dân “chạy đà” thành công và “cất cánh” trên hành trình đổi mới sáng tạo.

Xem thêm