Tuy nhiên, tiến trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông dân vẫn còn nhiều gian nan, thách thức.
Áp lực vốn và rủi ro đầu tư
Đi trong nhà màng phủ kín những giàn chanh leo xanh mướt của gia đình chị Lê Thị Bảo Trâm (xã KDang, tỉnh Gia Lai), chúng tôi không thể rời mắt khỏi những chùm quả tròn đều, mọng mịn.
“Các hộ dân đến thăm khu nhà màng này đều mê chất lượng cây và trái lắm nhưng khi nghe đến số vốn đầu tư thì họ đều lưỡng lự. Con số 4 đến 5 tỷ đồng, vượt xa tưởng tượng cũng như khả năng chi trả ban đầu của hầu hết nông dân. Bởi lẽ ngoài nhà màng, còn phải đầu tư công nghệ như cảm biến dinh dưỡng đất, hệ thống máy tưới nhỏ giọt, các loại vật tư nông nghiệp chất lượng cao.
Câu chuyện này không mới nhưng lại là “nút thắt” khó gỡ nhất trong tiến trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông dân. Với sản xuất nông nghiệp hiện đại, việc đầu tư công nghệ không hề rẻ, nếu đầu tư thất bại, nông dân sẽ mất cả cơ nghiệp, thậm chí đeo thêm một khoản nợ khổng lồ. Bản thân tôi cũng từng trải qua những tháng ngày đó nên vô cùng thấm thía. Nhưng thật sự không đi thì không đến được”, chị Trâm cho biết.
Anh Võ Thanh Hải (xã Mỹ Quý, tỉnh Đồng Tháp) cho biết, đang trồng lúa và sầu riêng theo lối sản xuất truyền thống vì không có khả năng đầu tư các loại máy móc công nghệ. Gia đình anh vay hơn 100 triệu đồng của ngân hàng, chỉ đủ phục vụ các khoản chi vật tư nông nghiệp và thuê mướn thiết bị công nghệ khi cần thiết.
Chuối, một loại cây được cho là dễ trồng và có chu kỳ thu hoạch nhanh, cũng đang được kỳ vọng tăng trưởng mạnh mẽ trên thị trường với nhu cầu cao từ nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, trồng chuối theo quy trình kỹ thuật, ứng dụng công nghệ cao cũng không dễ với hộ nông dân đơn lẻ.
Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp An Thịnh Khang Farm (tỉnh Gia Lai) Dương Minh Toàn cho biết, công ty có 16ha chuối đang cho thu hoạch và 70ha đang trồng mới. Trung bình cần đầu tư 350 triệu đồng/ha chuối, chưa kể đầu tư máy drone nông nghiệp khoảng 300 triệu đồng, các hệ thống ròng rọc vận chuyển chuối để tránh dập nát hay hệ thống kho lạnh bảo quản chuối sau khi đóng hộp để giữ chuẩn mẫu mã và chất lượng xuất khẩu... Do đó, để nhận lại giá trị cao từ trái chuối, cần có công nghệ đi kèm, nếu không đủ tiềm lực tài chính thì sản xuất không thể mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Lực cản tâm lý và khoảng trống tri thức
Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp hữu cơ Krông Pắc (xã Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk) Bùi Tin chia sẻ: Hợp tác xã có 121 thành viên với diện tích canh tác 121ha sầu riêng. Tuy nhiên, không phải hộ dân nào cũng mạnh dạn đầu tư, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, bởi việc ứng dụng công nghệ đòi hỏi nông dân phải học hỏi để biết vận hành thiết bị, phân tích dữ liệu, đọc hiểu hợp đồng, thực hiện truy xuất nguồn gốc… Sản xuất theo hướng hữu cơ cần thời gian, sự kiên trì, trong khi đầu ra cho sản phẩm vẫn phụ thuộc vào thị trường và niềm tin của người tiêu dùng cho nên nếu nông dân không quyết tâm, duy trì tính kỷ luật cao trong canh tác thì rất khó triển khai. Hơn nữa, nhiều nông dân cũng chưa quen với làm ăn lớn, đầu tư cao vào máy móc, quy trình sản xuất nên còn ngần ngại.
Khoảng trống tri thức cũng là một trở ngại lớn trong quá trình đưa nông dân tiếp cận khoa học công nghệ và chuyển đổi số. Theo Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, hiện nay trình độ học vấn của lao động nông thôn còn thấp, xu hướng dân số nông thôn đang bị già hóa nhanh do một lực lượng lớn lao động trẻ đã di cư sang các thành phố lớn và tìm kiếm việc làm tại các khu công nghiệp. Do đó, khả năng tiếp cận tri thức cũng như ứng dụng công nghệ của nông dân tại địa phương lại càng hạn chế; cộng với quy mô sản xuất nhỏ lẻ, thiếu liên kết trở thành lực cản cho đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp.
Trong khi đó, các chính sách đào tạo cho nông dân cũng chưa thật sự được trải rộng và hiệu quả. Đồng Tháp là một trong những tỉnh đã tạo dấu ấn tiên phong chuyển đổi số nông nghiệp với việc triển khai Nền tảng Dữ liệu số về nông nghiệp (VDAPES.COM) vào năm 2023 theo chỉ đạo của Ủy ban Quốc gia về Chuyển đổi số.
Công tác số hóa dữ liệu đã hoàn thành với 100% diện tích, và số liệu thống kê của ngành nông nghiệp tỉnh được cập nhật lên hệ thống, bao phủ sáu lĩnh vực chính: trồng trọt, thủy sản, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy lợi, và phát triển nông thôn. Tuy nhiên, theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Tháp Lê Hà Luân, hiện công tác đào tạo bồi dưỡng, hướng dẫn nông dân ứng dụng công nghệ thông tin và quy trình sản xuất (truy xuất nguồn gốc, xây dựng mã vùng trồng), khai thác thông tin cung-cầu, thông tin về sản xuất nông nghiệp, môi trường thông qua mạng internet vẫn chưa được phủ rộng hoàn toàn. 840 hợp tác xã, tổ hợp tác nông nghiệp, hội quán (chiếm 50,2%) được đào tạo, hướng dẫn.
Trong đó, 57.700/97.000 thành viên, chiếm 59,48%, biết cách ứng dụng công nghệ thông tin và quy trình sản xuất. Dự kiến từ nay đến cuối năm 2025, Sở sẽ tổ chức 16 lớp với 500 thành viên hợp tác xã, tổ hợp tác nông nghiệp, hội quán tham dự tập huấn. Lũy kế đến cuối năm 2025 có 58.200 thành viên được tập huấn và biết cách ứng dụng công nghệ thông tin và quy trình sản xuất, đạt 60% chỉ tiêu đề ra.
Những nỗ lực đổi mới của nông dân trên hành trình chuyển hướng sang nông nghiệp công nghệ cao đã hé mở tiềm năng nhưng còn nhiều nấc thang thử thách khi không phải nông dân nào cũng đủ vốn liếng, bản lĩnh và tri thức để đi đến cùng. Do đó, nông dân cần sự đồng hành của cơ chế, chính sách tài chính linh hoạt, sự hỗ trợ của doanh nghiệp công nghệ, các chương trình đào tạo bài bản từ hệ thống khuyến nông... để đường xa bớt gập ghềnh.
(Còn nữa)