Từ một người lánh nạn, ông trở thành điểm tựa vững chắc cho cộng đồng làng Triêl, xã Ia Pnôn, tỉnh Gia Lai - nơi từng là vùng đất xa lạ, nay đã trở thành quê hương thứ hai của hàng trăm người dân gốc Campuchia.
Hồi sinh từ ký ức đau thương
Sinh năm 1966 tại làng Lâm, xã Pó Nhầy, huyện Oyadav, tỉnh Ratanakiri (Campuchia), ông Rơ Mah Blơi từng chứng kiến những ngày tháng kinh hoàng dưới chế độ diệt chủng Pol Pot. "Người dân hoảng loạn, bồng bế nhau chạy trốn vào rừng. Chúng tôi ăn lá cây, uống nước suối, mỗi sáng thức dậy lại thiếu vắng một vài người vì đói khát, bệnh tật", ông kể lại với giọng trầm lặng.
Năm 1978, cùng với gần 40 hộ dân, gia đình ông vượt qua biên giới, đặt chân đến vùng đất Ia Pnôn. Ông nhớ lại: Lúc ấy, tôi mới chỉ hơn 10 tuổi. Quân Pol Pot đuổi khắp nơi khiến chúng tôi phải đi bộ nhiều ngày trong rừng, đói lả, chân phồng rộp, không biết mình đi đâu, chỉ mong thoát khỏi tiếng súng và sự truy sát. Khi đến làng Triêl, người dân Jrai cùng cán bộ địa phương và bộ đội đã mở rộng vòng tay cưu mang. Những bát cháo loãng, những tấm áo chia sẻ, những lời động viên chân tình đã giúp chúng tôi lánh nạn và vượt qua thời khắc khốn cùng. "Chính tình người nơi đất Việt đã nuôi dưỡng và trao cho chúng tôi cơ hội có cuộc sống như ngày hôm nay", ông xúc động nói.
Sau khi ổn định cuộc sống, ông Blơi tham gia lực lượng dân quân, làm công an viên, cán bộ bán chuyên trách, bí thư chi bộ và được người dân tín nhiệm bầu làm già làng. Ông không chỉ là người đứng đầu làng mà còn là cầu nối giữa chính quyền và người dân. Ông thường xuyên phối hợp bộ đội biên phòng, Mặt trận, các đoàn thể để tuyên truyền pháp luật, vận động người dân thay đổi nếp nghĩ, cách làm. Một trong những đóng góp nổi bật của ông là việc xóa bỏ nạn tảo hôn. Trước đây, tình trạng này diễn ra khá phổ biến ở xã Ia Pnôn cho nên ông đã cùng chính quyền xây dựng hương ước: Nếu gia đình nào để con tảo hôn phải kiểm điểm trước cộng đồng, dòng họ. "Mưa dầm thấm lâu, giờ người dân đã biết làm ăn, biết giữ gìn, bảo vệ biên giới, trân trọng nơi đã cưu mang mình", ông chia sẻ.
Không chỉ nói, ông Blơi còn làm. Ông là người đầu tiên trong làng chặt bỏ gần 2 ha điều già cỗi để trồng cao-su tiểu điền. Ban đầu, nhiều người nghi ngại. Nhưng khi vườn cao-su phát triển tốt, cho thu nhập ổn định, họ bắt đầu làm theo. Đến nay, làng Triêl đã có gần 300 ha cao-su tiểu điền, trở thành nguồn thu chính của nhiều hộ dân. “Mỗi ngày, mình cạo mủ bán được 700 nghìn đồng. Cứ cạo suốt tám tháng thì dừng cho vườn nghỉ rồi sau đó cạo tiếp. Không phải tốn quá nhiều công”, ông nói. Ngoài ra, ông còn làm chuồng chăn nuôi xa khu vực nhà ở để giữ vệ sinh, cải tạo đất, chọn giống tốt… Những việc làm thiết thực ấy đã tạo niềm tin cho người dân, giúp họ mạnh dạn thay đổi cách làm nông nghiệp.
Người truyền lửa cho cộng đồng
Làng Triêl được hình thành từ những người Campuchia lánh nạn, cách trung tâm xã Ia Pnôn khoảng 1 km. Tên làng được giữ nguyên để ghi nhớ nguồn cội. Ban đầu, cuộc sống người dân nơi đây khá khó khăn. Nhưng nhờ sự hỗ trợ của chính quyền về đất ở, đất sản xuất, cây giống… dần dà cuộc sống đã ổn định. Một số hộ hồi hương vào các năm 1987 và 1992, nhưng phần lớn vẫn gắn bó với nơi này như quê hương thứ hai. Giờ đây, làng Triêl có gần 800 nhân khẩu, 95 hộ dân, tất cả đều có quốc tịch Việt Nam. Trẻ em được đến trường, người lớn có đất sản xuất, nhà cửa khang trang, xe máy chạy rộn ràng trên những con đường bê-tông sạch sẽ. Từ một điểm lánh nạn, làng Triêl đã trở thành biểu tượng của sự hồi sinh.
Trong căn nhà khang trang, ông Blơi đặt trang trọng ảnh Bác Hồ bên cạnh ảnh cha mình. Ông xúc động nói: “Đảng và Bác Hồ luôn ở trong tim tôi và người dân làng Triêl”. Chiếc thẻ đảng viên mà ông giữ như báu vật là minh chứng cho lòng trung thành, niềm tin và sự gắn bó của ông với đất nước đã cưu mang mình. Chị Siu H’loan, 21 tuổi, thế hệ thứ ba trong gia đình từng chạy loạn từ Campuchia chia sẻ: Hồi đó, ba mẹ khổ lắm, làm suốt mà vẫn không đủ ăn. Giờ thì khác rồi, nhiều nhà có tiền, xây nhà, mua đất, trồng cây. Trẻ con thì được đi học; thanh niên lớn lên thì đi làm công nhân nhà máy. Cuộc sống ổn định, khấm khá hơn rất nhiều...
Là người có uy tín, ông Blơi thường xuyên tham gia các cuộc họp, truyền đạt thông tin từ chính quyền đến người dân, đồng thời phản ánh nguyện vọng của người dân để cấp ủy, chính quyền kịp thời giải quyết. Theo già làng Blơi, đến nay cả làng đã có quốc tịch Việt Nam, con cái được hưởng đầy đủ quyền lợi như công dân Việt Nam.
Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã Ia Pnôn Lê Thị Khánh Hòa chia sẻ: Già làng Rơ Mah Blơi không chỉ là người cao tuổi được người dân kính trọng, mà còn là tấm gương sáng trong mọi hoạt động của địa phương. Ông luôn tiên phong trong các phong trào xây dựng đời sống văn hóa, phát triển kinh tế, giữ gìn an ninh trật tự và bảo tồn bản sắc dân tộc. Từng giữ vai trò là cán bộ xã, ông có nền tảng vững chắc về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, ông cũng nắm rõ những quy tắc ứng xử truyền thống, những giá trị văn hóa bản địa.
“Chính vì vậy, khi ông tuyên truyền hay vận động người dân, lời nói của ông luôn có sức thuyết phục cao. Ông không chỉ giải thích cặn kẽ những điều luật mà còn lồng ghép khéo léo vào những câu chuyện dân gian, những nét văn hóa quen thuộc, giúp mọi người dễ dàng tiếp thu và làm theo”, bà Hòa nhấn mạnh.
Với những đóng góp thiết thực, nhiều lần ông đã được Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và chính quyền các cấp tuyên dương. Câu chuyện của già làng Rơ Mah Blơi là hành trình vượt qua đau thương, là minh chứng cho sức mạnh của lòng nhân ái, sự đoàn kết và khát vọng vươn lên. Từ người lánh nạn, ông đã trở thành trụ cột của cộng đồng, người truyền lửa cho thế hệ sau, người giữ gìn bình yên nơi biên ải.