Văn Thánh miếu là một công trình văn hóa có ý nghĩa lịch sử, đề cao Nho giáo, là thiết chế văn hóa chính thống của nhà nước phong kiến. Trong Nam Kỳ lục tỉnh, Văn Thánh miếu Vĩnh Long xây dựng sau cùng dưới triều Nguyễn và là công trình duy nhất còn tồn tại các yếu tố nguyên gốc cho đến hôm nay.
Kiến trúc độc đáo
Theo nhiều tài liệu ghi chép, năm 1862, sau khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ lần lượt lọt vào tay thực dân Pháp. Lúc bấy giờ, tỉnh Vĩnh Long cũng lọt vào tay thực dân Pháp nhưng theo hòa ước Nhâm Tuất (1862) thì Pháp phải trả tỉnh này lại cho triều đình Huế. Do đó, sĩ phu ở các tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường đã rầm rộ “ty địa” về Vĩnh Long. Kinh lược sứ Nam Kỳ Phan Thanh Giản giao đốc học Nguyễn Thông tìm mảnh đất xây dựng Văn Thánh miếu nhằm duy trì sự học, phong trào tỵ địa, giáo dục lòng yêu nước. Công trình được khởi công từ mùa đông năm Giáp Tý (1864) và hoàn thành vào mùa thu năm Bính Dần (1866).

Sau khi công trình hoàn thành, triều đình Huế cấp 20 miếu phu để quét dọn, thành lập Hội Văn Thánh miếu để trông nom, cúng tế. Văn Thánh miếu duy trì việc tế lễ ở cấp “trung tự” theo điển lễ của triều Nguyễn một lần duy nhất vào năm 1867 (lễ Xuân Đinh) Đinh đầu của tháng mùa xuân.
Tháng 6/1867, thực dân Pháp đánh chiếm thành Vĩnh Long lần thứ hai. Phan Thanh Giản tuẫn tiết, Nguyễn Thông “ty địa” ra Bình Thuận. Sau khi chiếm xong Vĩnh Long, thực dân Pháp lấy cớ thiếu gỗ xây dựng Dinh tham biện (Dinh tỉnh trưởng) định phá Văn Thánh miếu.
Thực hiện di huấn của cụ Phan Thanh Giản và được đồng bào ở tỉnh Vĩnh Long ủng hộ, ông Bá hộ Trương Ngọc Lang (người Minh Hương) tìm nhiều biện pháp để bảo vệ Văn Thánh miếu, giữ lại công trình văn hóa này. Từ khi ra đời đến nay, Văn Thánh miếu trải qua nhiều đợt trùng tu vào các năm 1872, 1903, 1914, 1933, 1963, 1994, 2006, 2007, 2010 và năm 2019 trùng tu Văn Xương Các.

Cổng Văn Thánh miếu được xây theo lối cổ lầu có ba tầng mái. Tuy đơn giản, nhưng cấu trúc mỹ thuật mang nét đặc trưng của loại hình kiến trúc Văn miếu. Sau cổng là thần đạo đi thẳng vào điện Đại chính. Hai bên là 2 hàng sao cao vút như hai hàng lính đứng hầu. Phía trước chính điện, giữa thần đạo là ba tấm bia đá.
Đáng kể nhất là tấm bia do Phan Thanh Giản viết trước khi tử tiết, Trương Ngọc Lang lập năm 1872. Tấm bia thứ nhì kỷ niệm ông Tống Hữu Định và những vị có công trùng tu tái thiết ngôi miếu năm 1903. Tấm bia thứ ba ca ngợi tấm lòng hảo tâm của bà Trương Thị Loan (con gái của Trương Ngọc Lang) hiến đất làm hoa lợi hương hỏa.
Đặc biệt, trong khuôn viên có xây dựng Tụy Văn Lâu (lầu nhóm họp giới văn nhân tài tử). Tụy Văn Lâu được trùng tu năm 1914 và khoảng năm 1920 – 1923 được đổi tên là Văn Xương Các (gác Văn Xương).
Văn Xương các làm theo kiểu trùng thiềm diệp ốc. Trên gác là nơi cất sách và thờ Văn Xương Đế Quân - vị tinh quân chủ quản việc thi cử học hành. Bài vị Văn Xương Đế Quân đặt trong khám thờ, chạm trổ sơn thếp đẹp đẽ.
Nhưng tầng dưới Văn Xương các mới là nơi quan trọng nhất. Gian giữa là nơi văn nhân, thi nhân ngồi đàm đạo. Phía sau là khám thờ Gia Định Sử sĩ Sùng Đức Tiên sinh Võ Trường Toản và Khâm sai Kinh lược sứ Phan Thanh Giản.

Mỗi năm tại Văn Thánh miếu có các ngày lễ lớn. Đó là Tế Khổng Tử và các vị Thánh Hiền vào ngày Xuân Đinh và Thu Đinh (ngày Đinh đầu tháng hai và ngày Đinh cuối tháng tám).
Cùng với đó là tại Văn Xương Các có lễ giỗ Phan Thanh Giản (mồng bốn và mồng năm tháng bảy), ngày giỗ các quan đại thần (ngày 12 và 13 tháng mười âm lịch).
Giữ gìn văn hóa phi vật thể
Theo Ban Quản lý di tích tỉnh Vĩnh Long, hiện nay trên địa bàn tỉnh có 2 di tích quốc gia đặc biệt, 45 di tích cấp quốc gia và 167 di tích cấp tỉnh. Văn Thánh miếu Vĩnh Long được Bộ Văn hóa, Thông tin, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1991. Năm 2024, Lễ hội Văn Thánh miếu được công nhận di sản văn hóa phi vật thể.
Ông Trần Văn Viễn, Trưởng Ban Quản lý di tích Văn Thánh miếu Vĩnh Long, cho biết: “Di tích này thường xuyên được người dân và khách du lịch đến tham quan, tìm hiểu bởi kiến trúc và lễ hội ở đây rất độc đáo. Vào những ngày lễ hội, khách thập phương đến rất đông, kín cả khuôn viên. Ngành giáo dục Vĩnh Long cũng thường xuyên đưa các em đến để giáo dục truyền thống, thể hiện tinh thần yêu quê hương đất nước cho các cháu noi theo”.

Từ nhiều năm qua, tỉnh Vĩnh Long đã tăng cường số hóa hình ảnh, hiện vật, nội dung ở các di tích lịch sử văn hóa cũng như các khu lưu niệm trên địa bàn tỉnh để phát triển khoa học, công nghệ trong lĩnh vực di sản văn hóa.
Việc số hóa không chỉ góp phần quan trọng trong công tác quản lý, lưu trữ dữ liệu di sản, làm cơ sở nghiên cứu lịch sử, văn hóa mà còn hỗ trợ tối đa việc trưng bày, tuyên truyền, quảng bá di sản, giúp mọi người có thể tiếp cận di sản một cách nhanh chóng, hiệu quả và thiết thực.
Theo lãnh đạo Bảo tàng tỉnh Vĩnh Long, nhận thức tầm quan trọng của công tác chuyển đổi số, từ năm 2022 đến nay, Bảo tàng Vĩnh Long từng bước thay đổi về hình thức trưng bày, tuyên truyền, phục vụ khách tham quan. Từ hình thức trực tiếp như truyền thống, nay đơn vị đã đưa vào hoạt động trang Thông tin điện tử. Qua đó, giúp cho quần chúng nhân dân dễ dàng tiếp cận các thông tin về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa bằng hình thức gián tiếp qua Trang thông tin điện tử http://www.baotangvinhlong.vn.

Nguyên Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Long Nguyễn Xuân Hoanh chia sẻ: “Văn Thánh miếu Vĩnh Long là một trong những di tích khá đặc biệt so với các tỉnh trong khu vực và Thành phố Hồ Chí Minh. Chính nhờ nơi đây do chính nhân dân đóng góp, xây dựng và bảo vệ cho nên kiến trúc và lễ hội ở đây gần như vẫn còn giữ nguyên giá trị. Đây không chỉ có giá trị về lịch sử văn hóa mà còn có giá trị về lòng dân. Khám phá trong từng trang tư liệu ở các khu di tích, chúng ta mới thấy rằng có nhiều tài liệu giúp cho các nhà nghiên cứu khám phá được vùng đất ngày xưa. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, nhiều di sản phản ánh sự đa dạng văn hóa và sự sáng tạo của con người được kế tục qua nhiều thế hệ. Nó không chỉ có khả năng tồn tại lâu dài mà còn là minh chứng cho tình yêu, sự trân trọng giá trị lao động, ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa và tinh thần đoàn kết. Đây chính là kết tinh của phẩm chất, cốt cách và nguồn động lực về tinh thần của người dân Vĩnh Long trong suốt chiều dài lịch sử, từ thời khai hoang mở cõi đến quá trình đấu tranh, hình thành và phát triển”.