Tại Hải Phòng, ngành chăn nuôi được xác định là hướng phát triển chủ lực trong cơ cấu nông nghiệp của thành phố. Theo Trung tâm Khuyến nông thành phố, hiện Hải Phòng có hơn 615 nghìn con lợn, đàn trâu, bò hơn 30 nghìn con, hơn 24,5 triệu con gia cầm; sản lượng thịt hơi đạt khoảng 22 nghìn tấn, trứng gia cầm đạt gần 80 triệu quả mỗi năm. Những con số này không chỉ phản ánh quy mô mà còn cho thấy hiệu quả từ việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới như lai tạo giống cao sản, sử dụng đệm lót sinh học, tiêm phòng định kỳ, kiểm soát môi trường chuồng trại và quy trình VietGAHP.
Hợp tác xã sản xuất và Thương mại Xuyên Việt (xã Gia Phúc) là đơn vị tiên phong áp dụng công nghệ nuôi cá nước ngọt “sông trong ao” hiện đại, khép kín, giúp giảm chi phí, tăng năng suất và kiểm soát tốt môi trường nuôi. Với tổng diện tích hơn 140 ha, chủ yếu nuôi cá rô phi Thái Lan để cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu sang Mỹ. Giám đốc hợp tác xã Lê Văn Việt cho biết: Mô hình ứng dụng kỹ thuật nuôi thủy sản của Israel “sông trong ao” hay công nghệ Biofloc giúp năng suất cá đạt tới 30 tấn/ha, cao gấp nhiều lần phương pháp truyền thống. Bí quyết nằm ở việc kiểm soát môi trường nước, tăng oxy hòa tan, sử dụng chế phẩm sinh học và men vi sinh để cá phát triển nhanh, khỏe mạnh. Mô hình này tái tạo môi trường sống tự nhiên, giúp cá thích nghi, phát triển ổn định, giữ được hương vị đặc trưng.
Một trong những người ứng dụng tốt kỹ thuật trong chăn nuôi là ông Nguyễn Văn Phúc ở xã Việt Khê. Trang trại của ông nuôi hơn 20 nghìn con gà theo quy trình VietGAHP và kỹ thuật an toàn sinh học. Nhờ hệ thống chuồng kín, đệm lót sinh học và kiểm soát môi trường, chất lượng thịt và trứng ổn định, giá bán cao hơn 15-20% so với trước. Ông Phúc chia sẻ: “Trước đây, gia đình tôi chỉ làm theo kinh nghiệm, gặp dịch bệnh là mất trắng. Nay làm bài bản, kỹ thuật tốt thì dịch ít, lời nhiều, môi trường cũng sạch hơn. Bây giờ, hộ chăn nuôi nào không học hỏi kỹ thuật mới thì khó mà phát triển...”.
Tại phường Nhị Chiểu, bà Nguyễn Thị Bình trở thành hình mẫu của người phụ nữ nông dân làm giàu nhờ làm chủ kỹ thuật. Từ 60 con đà điểu ban đầu, nay bà đã phát triển lên hơn 800 con, sản xuất trứng, giống và chế biến thực phẩm như xúc xích, giò, cao đà điểu đạt sản phẩm OCOP 4 sao. Bà Bình áp dụng quy trình nuôi sinh học, tận dụng cỏ và rau xanh trong trang trại làm thức ăn, không dùng hóa chất. Mỗi năm, doanh thu của bà đạt hơn 2 tỷ đồng, tạo việc làm cho 25 lao động.
Việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi cũng đang tạo ra hiệu quả rõ nét. Mô hình chăn nuôi gà VietGAHP ở các xã Cẩm Giàng, Mao Điền, Tuệ Tĩnh áp dụng kỹ thuật chuồng kín, điều hòa nhiệt độ tự động, khẩu phần ăn kiểm soát, tiêm phòng định kỳ. Kết quả, tỷ lệ sống đạt hơn 98%, năng suất tăng 10-15% so với nuôi truyền thống, môi trường chuồng trại sạch, người nuôi yên tâm về đầu ra.
Thực tế cho thấy, khi người nông dân thay đổi tư duy và mạnh dạn ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, họ không chỉ làm ra sản phẩm an toàn, chất lượng mà còn góp phần bảo vệ môi trường, nâng tầm giá trị nông nghiệp Việt Nam.
Hải Phòng đang đẩy mạnh Chương trình khuyến nông giai đoạn 2025-2029, tập trung xây dựng mô hình áp dụng tiến bộ kỹ thuật, phát triển giống vật nuôi thích ứng biến đổi khí hậu, hỗ trợ đào tạo và nhân rộng mô hình hiệu quả. Mục tiêu đến năm 2029, năng suất chăn nuôi tăng 15-20%, sản phẩm đạt tiêu chuẩn an toàn, có thể truy xuất nguồn gốc. Đây là bước đi then chốt trong lộ trình hiện đại hóa nông nghiệp của thành phố.
Hải Phòng còn triển khai chính sách hỗ trợ di dời chuồng trại chăn nuôi ra khỏi khu dân cư, khuyến khích đầu tư công nghệ cao. Các cơ sở di dời được hỗ trợ chi phí mua thiết bị cùng hỗ trợ đào tạo nghề và vốn vay ưu đãi. Đây là bước đi giúp bảo vệ môi trường, đồng thời tạo điều kiện để người dân tái đầu tư quy mô sản xuất hiện đại hơn.
Theo bà Lương Thị Kiểm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố: Hải Phòng có rất nhiều mô hình sản xuất chăn nuôi gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm được chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, hỗ trợ sản xuất an toàn, chứng nhận VietGAHP. Các mô hình đều có ý nghĩa về kinh tế, xã hội, môi trường; hiệu quả kinh tế tăng 15-30%; tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người chăn nuôi; giảm ô nhiễm. Các mô hình này gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm còn có nhiều ưu điểm kết nối thông tin bốn nhà sản xuất, liên kết tiêu thụ, khoa học công nghệ, người sản xuất.
Nhờ vào liên kết, nông dân mới có khả năng xây dựng và quản lý nhãn hiệu tập thể, tiến đến xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, quản lý về chất lượng sản phẩm để gia tăng giá trị, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường đối với các sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, bảo đảm an toàn, chất lượng.