Theo thống kê, đuối nước vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em tại Việt Nam, với tỷ suất trẻ em Việt Nam đuối nước cao gấp 10 lần các nước phát triển. Trong bối cảnh khí hậu ngày càng có nhiều thay đổi thất thường, công tác phòng chống đuối nước và giảm thiểu nguy cơ tử vong do đuối nước ở trẻ em càng trở nên cấp thiết, đặc biệt là công tác phối hợp liên ngành và hành động của toàn xã hội.
Thời gian qua, Cục Bà mẹ và Trẻ em cùng các ban, ngành và sự hỗ trợ của Tổ chức Y tế thế giới, Quỹ từ thiện Bloomberg và Tổ chức CTFK triển khai Dự án phòng, chống đuối nước trẻ em giai đoạn 2018-2025, sau 7 năm hoạt động, dự án đã đạt được nhiều con số ấn tượng.
Báo cáo cho thấy, từ năm 2018 đến nay, hơn 63.000 trẻ em Việt Nam đã được dạy bơi an toàn, hơn 1.500 giáo viên thể dục được cấp chứng nhận dạy bơi, hơn 30.000 cha mẹ, người chăm sóc trẻ, giáo viên mầm non được hướng dẫn về phòng chống đuối nước trẻ em. Tỷ lệ đuối nước trẻ em giảm 16% so với trước khi triển khai dự án tại các địa phương can thiệp, góp phần giảm số lượng các ca tử vong trẻ em do đuối nước.
Phát biểu ý kiến tại hội thảo, Thứ trưởng Y tế, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tri Thức đánh giá cao những nỗ lực của các ban, bộ, ngành, của các tỉnh, thành phố và các trường học đã tham gia triển khai chương trình, tạo ra kết quả đáng ghi nhận.
"Công tác triển khai được thực hiện đồng bộ, liên ngành, từ các ban, bộ, ngành, từ cấp trung ương đến địa phương, từ trường học đến cộng đồng, kết hợp với đẩy mạnh truyền thông xã hội. Các bằng chứng khoa học rõ ràng và đánh giá độc lập đã cho thấy chương trình có hiệu quả cao và chi phí hợp lý. Đây là cơ sở để chương trình tiếp tục được đưa vào các chương trình quốc gia, hướng đến đạt được mục tiêu giảm 10% số trẻ em bị tử vong do đuối nước năm 2025 và 20% vào năm 2030 theo Quyết định 1248/QĐ-TTg", Thứ trưởng Nguyễn Tri Thức cho biết.
Đại diện Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam - bà Meheret Melles-Brewer nhấn mạnh nguy cơ đuối nước tăng lên do nhiệt độ gia tăng, các hiện tượng thời tiết cực đoan xảy ra thường xuyên hơn và lũ lụt theo mùa, đặc biệt là đối với trẻ em trong nhóm dễ bị tổn thương ở khu vực nông thôn và ven biển.
Việc liên kết công tác phòng, chống đuối nước với các chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu rộng hơn, như cơ sở hạ tầng kiên cường, hệ thống cảnh báo sớm và sự chuẩn bị của cộng đồng, sẽ giúp Việt Nam xây dựng môi trường an toàn hơn và bảo vệ tính mạng của trẻ em.
Bên cạnh đó, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Nguyễn Ngọc Anh cho biết: Với mỗi 1 USD Mỹ chi ra cho hoạt động can thiệp dạy bơi cho trẻ em có thể hoàn vốn đầu tư đến 20 USD Mỹ. Theo kết quả phân tích chi phí hiệu quả mức hoàn vốn đầu tư (ROI), đây là mức hoàn vốn cao, gấp 20 lần chi phí ban đầu. Như vậy, mỗi buổi học bơi cho 20 trẻ em chỉ có chi phí trung bình khoảng 50.000 đồng, trong khi ước tính gánh nặng kinh tế do đuối nước ở trẻ em có thể lên đến hơn 15 tỷ đồng mỗi năm.
Với cam kết chuyển đổi những sáng kiến thành công của chương trình can thiệp mang tầm vóc quốc gia, Giám đốc quốc gia, Tổ chức Campaign for Tobacco-Free Kids (CTFK) tại Việt Nam Đoàn Thị Thu Huyền đã đưa ra 4 khuyến nghị để tăng cường công tác phòng chống đuối nước cho trẻ em.
Cụ thể, trên phương diện đầu tư nguồn lực và tài chính, qua triển khai chương trình, chi phí trung bình để đào tạo một trẻ em biết bơi an toàn chỉ khoảng hơn 720.000 đồng. Cùng với kết quả phân tích hoàn mức vốn đầu tư đến 20 lần, đây là cơ sở dữ liệu quan trọng để các địa phương tham khảo, trong việc ưu tiên bố trí ngân sách địa phương và kêu gọi xã hội hóa dựa trên quy trình đào tạo chuẩn mà chương trình đã xây dựng, xây dựng giải pháp bảo đảm tính hiệu quả về chi phí.
Công tác phòng chống đuối nước ở trẻ em cần được lồng ghép vào chỉ tiêu phát triển của quốc gia và từng địa phương, đẩy mạnh vai trò nhiệm vụ chính trị quan trọng. Tổ chức khuyến nghị đưa tỷ lệ trẻ em biết bơi an toàn và có kỹ năng an toàn vào hệ thống chỉ số phát triển kinh tế-xã hội, tạo động lực triển khai thực thi mạnh mẽ nhất.
Đồng thời, công tác phòng chống đuối nước ở trẻ em phải được chuẩn hóa và giám sát. Tăng cường công tác thu thập số liệu, đánh giá để đưa ra các can thiệp tại địa phương, đồng thời kiểm tra, giám sát các cơ sở dạy bơi, bảo đảm tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an toàn. Chương trình được đo lường tốt góp phần quản lý hiệu quả.
Công tác phòng chống đuối nước không thể tách rời khỏi bối cảnh thiên tai, bão lũ. Để thích ứng với biến đổi khí hậu, cần lồng ghép giáo dục kỹ năng phòng chống đuối nước vào các chương trình ứng phó thiên tai, trang bị cho trẻ em khả năng tự bảo vệ khi bão lũ xảy ra.
"Đuối nước có thể xảy ra chỉ trong khoảnh khắc, nhưng với nhận thức đúng đắn và hành động kịp thời từ mỗi chúng ta, đuối nước hoàn toàn có thể phòng chống. Chúng tôi mong rằng, cùng với sự quan tâm và đầu tư của chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ liên ngành, cơ sở vật chất và kỹ thuật để dạy bơi an toàn và kỹ năng an toàn cho trẻ em sẽ ngày càng được nhân rộng và nâng cao. Đây là một trong những can thiệp minh chứng hiệu quả để phòng chống đuối nước trẻ em”, bà Đoàn Thị Thu Huyền nhấn mạnh.
Hướng đến năm 2026, trong bối cảnh chuyển giao dự án đến Bộ Y tế và các địa phương, công tác nâng cao năng lực, quản lý và nhân rộng các mô hình can thiệp hiệu quả như mô hình cộng đồng an toàn, trường học an toàn, đang trở nên cấp bách. Đặc biệt, trong bối cảnh thích ứng với biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan ngày càng nghiêm trọng, việc triển khai mạnh mẽ chương trình phòng chống đuối nước để bảo vệ trẻ em càng cần thiết hơn.
Thảo luận tại hội thảo, các đại biểu cũng chia sẻ những kinh nghiệm, kiến nghị nhằm góp phần giúp các địa phương xây dựng mô hình an toàn cho trẻ em, giảm thiểu tai nạn thương tích, hướng tới mục tiêu “Mọi trẻ em Việt Nam đều được sống an toàn và khỏe mạnh”.