Trong suốt quá trình đó, vấn đề xây dựng nền kinh tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trải qua muôn vàn khó khăn trong suốt 30 năm kháng chiến, kiến quốc (1945-1975), nền kinh tế quốc gia vẫn hoàn thành nhiệm vụ phục vụ đời sống nhân dân và nuôi quân ăn no đánh thắng.
Nền kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xây dựng và phát triển khác nhau trong hai thời kỳ kháng chiến nhưng có một đặc trưng chung mang tính chủ đạo nhất là nền kinh tế-quốc phòng, lấy phục vụ công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc là nhiệm vụ then chốt.
Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ…
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến giành lại độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, ngay sau ngày giành chính quyền, đất nước kiệt quệ vì chính sách khai thác, bóc lột của thực dân, phong kiến và nạn đói khủng khiếp năm 1945 gây muôn vàn khó khăn cho chính quyền dân chủ nhân dân non trẻ.
Trong tình thế nguy nan mọi mặt về kinh tế, xã hội, quốc phòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đứng đầu Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã coi xóa nạn đói - giặc đói là nhiệm vụ hàng đầu. Với chủ trương đoàn kết, nhường cơm xẻ áo, toàn dân tham gia tận dụng đất, trồng mọi loại lương thực, rau màu nên nạn đói được khắc phục.
Trong những năm đầu kháng chiến (1946- 1949), nền kinh tế độc lập, tự chủ của dân tộc được xây dựng dựa trên hai chính sách căn bản: Một là, tự cung tự cấp, lấy nông nghiệp là trọng tâm hàng đầu để tiến hành kháng chiến, kiến quốc. Phương châm sản xuất, canh tác được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát: Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ…(1); Hai là, huy động kinh tế, tài chính, lương thực nuôi quân và hệ thống chính trị từ sự đóng góp của nhân dân. Từ năm 1950 đến năm 1954, ngoài sự tự lực trong nước, nền kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn được ủng hộ, chi viện của một số nước XHCN, trước hết là của Trung Quốc và Liên Xô.
Ngay sau ngày giành chính quyền, nạn đói khủng khiếp năm 1945 gây muôn vàn khó khăn cho chính quyền dân chủ nhân dân non trẻ. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đứng đầu Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã coi xóa nạn đói - giặc đói là nhiệm vụ hàng đầu.
So với trước Cách mạng Tháng Tám, kinh tế Việt Nam có biến chuyển. Dù đại thể nông nghiệp là “mặt trận hàng đầu” nhưng đã có các nhóm ngành kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Bên cạnh kinh tế cá thể là chủ đạo đã có một bộ phận thuộc kinh tế toàn dân và tập thể. Nền kinh tế được Chính phủ xây dựng phục vụ hai nhiệm vụ: kháng chiến và kiến quốc. Có kháng chiến mới bảo vệ và kiến thiết được quốc gia và ngược lại, kiến quốc là điều kiện cốt yếu để kháng chiến.
Với phương châm phấn đấu “Ăn no, đánh thắng”
Sau năm 1954, đất nước bị chia cắt làm hai miền: miền bắc được hoàn toàn giải phóng, trong khi đó ở miền nam, Hoa Kỳ dựng lên chính quyền Việt Nam cộng hòa nhằm chống Cộng, chia cắt lâu dài đất nước. Mưu mô của Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn đã đi ngược lại nguyện vọng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam: Đất nước phải độc lập, thống nhất. Vì thế, nhân dân cả nước đã đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài hơn hai mươi năm (1954-1975). Trong cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt đó, miền bắc luôn giữ vững vai trò, vị trí là hậu phương lớn, yếu tố quyết định thành bại đối với sự nghiệp cách mạng cả nước. Công cuộc xây dựng miền bắc xã hội chủ nghĩa trải qua hai giai đoạn: 1954-1965 và 1965-1975.
Từ năm 1954 đến năm 1965, miền bắc xây dựng kinh tế trong thời bình. Sau ba năm khôi phục (1955-1957), các chỉ tiêu kinh tế của miền bắc đã đạt và vượt năm 1939, năm trước chiến tranh thế giới. Từ năm 1958-1960, Đảng và Chính phủ chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa: cải tạo thành phần kinh tế tư bản, tiểu thương, tiểu chủ và kinh tế cá thể của nông nghiệp thành thành phần kinh tế quốc doanh (Nhà nước) hoặc kinh tế tập thể (chủ yếu là hợp tác xã sản xuất nông nghiệp). Chính sách quốc hữu hóa và tập thể hóa đã làm thay đổi diện mạo kinh tế miền bắc: từ nhiều thành phần còn lại hai thành phần kinh tế cơ bản là toàn dân và tập thể. Trên cơ sở nền kinh tế mới, từ năm 1961 đến 1965, miền bắc thực hiện kế hoạch 5 năm (1961-1965) với mục tiêu xây dựng cơ sở, nền móng đầu tiên đưa miền bắc tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.

Năm 1964, khi miền bắc đang bước vào năm cuối thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trở nên vô cùng ác liệt. Hoa Kỳ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại hòng đưa hậu phương miền bắc trở về “thời kỳ đồ đá”. Trong điều kiện đó, Đảng và Chính phủ chủ trương chuyển hướng xây dựng kinh tế miền bắc, không ưu tiên phát triển công nghiệp nặng mà chuyển sang xây dựng công nghiệp địa phương vừa và nhỏ, kết hợp kinh tế với quốc phòng. Do đó, dù chiến tranh phá hoại của Hoa Kỳ ở miền bắc vô cùng ác liệt, không có thành phố nào không bị đánh phá, không có khu công nghiệp nào không bị tàn phá… nhưng miền bắc vẫn vững vàng chia lửa với miền nam trong trạng thái có lúc “hạt gạo căn làm 4”.
Ăn no đánh thắng trở thành phương châm phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân trong thời kỳ lịch sử vẻ vang này.
Vừa chiến đấu, vừa kiến thiết xây dựng đất nước là đặc điểm bao trùm lên nền kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với chính sách tự lực, tự cường, tranh thủ viện trợ quốc tế nên đất nước đã vượt qua được mọi khó khăn do cuộc chiến tranh gây ra. Khái quát lịch sử kinh tế Việt Nam thời kỳ hiện đại cho thấy chính sách nổi bật trong xây dựng kinh tế Việt Nam trong 30 năm (1945-1975) luôn lấy nông nghiệp làm hàng đầu. Nông nghiệp quốc gia vừa là tiền đề, điểm xuất phát trong xây dựng nền kinh tế tự chủ vừa là yếu tố cực kỳ quan trọng phục vụ công cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc. Ăn no đánh thắng trở thành phương châm phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân trong thời kỳ lịch sử vẻ vang này.
Từ năm 1960 trở đi nền kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thay đổi lớn, xuất phát từ thay đổi cơ chế quản lý kinh tế: xây dựng nền kinh tế quốc dân dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Đó là sự đòi hỏi tất yếu phải xây dựng một phương thức sản xuất mới, đã hình thành cơ sở ngay trong thời kỳ vận động giải phóng dân tộc: Làm cách mạng giải phóng dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, chính mô hình tập thể hóa, nền kinh tế dựa vào chế độ công hữu tư liệu sản xuất lại trở thành yếu tố khách quan tạo nên sức mạnh tập thể, đoàn kết, nâng cao ý chí và phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc để giành thắng lợi vẻ vang trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc.
***
50 năm sau Ngày thống nhất đất nước, 80 năm sau Ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nền kinh tế Việt Nam hôm nay đã có những bước phát triển vượt bậc, hội nhập sâu rộng với kinh tế toàn cầu. Cả ba nhóm ngành kinh tế công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp phát triển bền vững, toàn diện, đang vươn mình sang thời kỳ phát triển mới.
Trong khi đất nước và nền kinh tế thay đổi, phát triển từng ngày, nhân dân cả nước luôn nhớ về Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, người khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong Di chúc thiêng liêng của mình, Người căn dặn: Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân(2). Lời di chúc thiêng liêng ấy đã được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nghiêm túc thực hiện, từng bước đưa Việt Nam trở nên giàu mạnh, đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
------------
(1) “Thư gửi nông dân thi đua canh tác”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, 1951-1952, xuất bản lần thứ ba, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.44.
(2) “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố năm 1969”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15, 1966-1969, xuất bản lần thứ ba, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.622.