Theo đó, trước bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn, nhu cầu thị trường chưa phục hồi mạnh, Việt Nam cần tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhóm giải pháp nhằm củng cố đà phục hồi, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Cụ thể, các chính sách tài khóa và tiền tệ cần được triển khai một cách chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với các chính sách khác, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất-kinh doanh, giải ngân đầu tư công và hỗ trợ tiêu dùng nội địa. Đồng thời, các cấp, các ngành cần thực hiện nghiêm túc, đồng bộ và hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tại các Nghị quyết, Chỉ thị, Công điện.
Cục Thống kê đề xuất các giải pháp cụ thể đối với từng lĩnh vực:
Một là, tiếp tục duy trì môi trường vĩ mô ổn định, tạo niềm tin cho nhà đầu tư và người dân. Theo dõi sát diễn biến giá cả thế giới, đặc biệt là giá năng lượng, lương thực để có biện pháp ứng phó kịp thời. Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, đảm bảo kiểm soát lạm phát trong mục tiêu đề ra (dưới 4,5%). Ổn định tỷ giá, đảm bảo thanh khoản hệ thống ngân hàng.
Hai là, phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Đây là mục tiêu then chốt, cần thực hiện mạnh mẽ theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Tăng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) trong công nghệ số, sinh học, vật liệu mới, tự động hóa; kết nối hệ sinh thái khởi nghiệp-đổi mới sáng tạo; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đào tạo nghề và kỹ năng số đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0.
Ba là, thúc đẩy giải ngân và hiệu quả đầu tư công là động lực quan trọng nhất, cần tiếp tục được ưu tiên hàng đầu. Phải quyết liệt tháo gỡ mọi nút thắt về thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng, nguồn vật liệu xây dựng để đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án, đặc biệt là các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm của đất nước. Bảo đảm giải ngân tối đa hướng tới mục tiêu giải ngân 100% vốn đầu tư công mà Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu.

Bốn là, kích cầu xuất khẩu và khai thác tối đa lợi thế hiệp định thương mại tự do (FTA). Cần tận dụng triệt để các cơ hội từ các hiệp định đã có hiệu lực, như: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)... Tăng cường xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường mới, đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu. Tiếp tục duy trì đà tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu ở mức hai con số để đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP.
Năm là, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, minh bạch hóa chính sách, đơn giản hóa thủ tục hành chính để thu hút và nâng cao chất lượng vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và chính trị-xã hội để tạo niềm tin cho nhà đầu tư. Ưu tiên thu hút các dự án FDI có công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, thân thiện với môi trường và có khả năng kết nối, chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước. Đảm bảo duy trì dòng vốn FDI thực hiện tăng trưởng ổn định, là nguồn lực quan trọng cho phát triển sản xuất, xuất khẩu.
Sáu là củng cố sức mua của thị trường trong nước thông qua các chính sách phù hợp nhằm kích thích tổng cầu nội địa và tiêu dùng. Đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại nội địa, khuyến mãi. Đẩy mạnh phục hồi và phát triển ngành du lịch, dịch vụ, khai thác tối đa tiềm năng từ lượng khách quốc tế tăng trưởng mạnh.
Bảy là, chủ động ứng phó với biến động kinh tế toàn cầu theo hướng nâng cao năng lực phân tích, dự báo các rủi ro từ bên ngoài như xung đột địa chính trị, chính sách thương mại của các nền kinh tế lớn, biến động giá cả hàng hóa. Chủ động xây dựng các kịch bản ứng phó, có các giải pháp linh hoạt để giảm thiểu tác động tiêu cực đến xuất khẩu, nhập khẩu và đầu tư. Đa dạng hóa thị trường và đối tác thương mại để giảm thiểu rủi ro tập trung.