Từ ngày cưới, vợ Thức chỉ ở với bà Mai chừng một tháng rồi lên phố, hiếm khi gặp mẹ chồng, thế mà cứ kiểu bóng gió, xúc xiểm, làm không khí trở nên ngột ngạt. Nhiều khi, bà hỏi, vợ chậm trả lời nên Thức phải trả lời thay. Tại Thức mời mọc nhiều quá, bà đành miễn cưỡng theo ra kẻo Thức lại nghĩ con quý, con khinh. Bà thương thằng Mít, lúc nào mặt cũng sưng húp vì xem điện thoại. Ăn xong là bổ vào phòng đóng cửa. Còn cái Bông mắc chứng tự kỷ nữa, lên bảy vẫn phải ở lớp mầm non.
Thời gian rù rì trôi. Bà thấy mình mẩy bấy đi nhiều quá. Cái hôm lên căn hộ chung cư hạng sang của Thức bà đã thấy mọi thứ tù đọng, muốn về với vạt cà hoa tím, đầm sen ngan ngát thơm hương hay bầy gà mẹ gà con lích chích. Bà không quen những nơi nhà cửa xếp chồng lên nhau như hộp diêm, phải đi thang máy chóng cả mặt. Cái ban-công thì chất chồng nhiều thứ quá. Trước hôm đón bà lên, Thức đã vứt bớt mấy thứ không cần thiết rồi mua về mấy chậu hoa nhài, dạ yến thảo, nguyệt quế để tạo không gian đẹp hơn. Vợ chồng Thức sáng đưa con đến trường, đi làm, đến tối mới về cơm cơm nước nước. Ban ngày bà ra ban-công ngó xuống sân, nhìn ra đường thấy người ngợm chi chít. Nhà ở tầng năm thôi mà chóng hết cả mặt. Chán, bà lại vào bật ti-vi, thần thừ nghĩ chứ chả xem. Cũng may, thi thoảng vài chú chim nhỏ phía công viên bay đến. Chúng đậu lên
lan-can, chậu dạ yến thảo treo cạnh dây phơi. Chúng đến làm bà vui chốc lát, rồi bay đi kiếm mồi.
Thấy mẹ có vẻ không vui, Thức nói nhỏ: “Nếu mẹ buồn, con xin đưa mẹ về”. Chỉ cần nghe thế bà đã thấy dễ thở hơn nhiều. Song bà còn e Thức buồn. Bà bảo sẽ ở lại thêm hai ngày. Bà cũng nhắc con trai: “Đưa mẹ về thì anh em con nói chuyện với nhau một lời. Cái gì bỏ qua được thì bỏ qua. Mẹ chỉ mong anh em thương nhau như bầu bí chung giàn”. Thức im lặng. Bà vỗ vai con, bảo còn hai đứa con, nhìn chúng như thể thiếu cái gì đó. Sau cùng, bà nhắc con nên cho các cháu về quê chơi. Sự mộc mạc, nắng gió, cây cỏ làng quê có khi làm chúng bớt nghiện mấy trò chơi trên điện thoại. Thức “vâng” mà như sắp khóc.
***
Ông nhà hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ biên giới, bà ở vậy nuôi hai con nhỏ. Lớn lên Thức học hành, ra phố lập nghiệp. Còn Tôn, con thứ hai chỉ muốn gắn bó với đồng ruộng. Tôn thích trăng sao, cỏ cây, dốc sức chăm lo cho ao đầm, vườn tược, thu vén mọi thứ để không gian lúc nào cũng hiền hòa, đầy hoa quả. Toàn bộ đất đai, vườn đầm đã do Tôn đứng tên. Xửa xưa, đất quê rẻ mạt, có nơi cho chẳng ai lấy, nhưng giờ tấc đất tấc vàng vì đường lớn đi qua. Người thành phố về săn đất xây nhà vườn, cố mang cho mình cuộc sống yên bình. Thức nhăm nhe lên giọng đòi chia thì Tôn không cho. Mấy lần Thức cãi nhau với Tôn, lòng bà Mai nặng trĩu. Nói con thứ chia cho con cả một ít, thì Tôn gắt lên: “Anh chị ấy mất gốc rồi, mẹ thương làm gì!”
Thức thích ăn trắng mặc trơn, lại nghe vợ nên nhiều lần họ hàng, thôn xóm có việc gọi mời, anh đều làm ngơ. Mỗi khi nội tộc có lễ, giỗ, Thức tìm đủ lý do khước từ. Thái độ sống đẩy Thức xa làng, phai nhạt tình anh em họ hàng. Mỗi lần bà Mai ốm đau, cũng chỉ hai vợ chồng Tôn chăm sóc. Bà lại tự bảo, chắc thằng Thức bận quá. Hôm hai anh em nó cãi nhau to ở cầu Móng, mặt Thức đỏ gay, giọng gằn lên, nói sẽ không bao giờ về quê nữa. Bà Mai nhọc lòng nghĩ cách cho hai con hòa hợp. Có lần, hai mẹ con hái sen, bà Mai bảo Tôn: “Nó là anh, nhưng dại. Thôi thì, con nhường lại cho anh chút đất. Mẹ vẫn nhớ, ngày xưa bảo Thức giữ một ít, nhưng nó không cần”. Tôn từ tốn: “Mẹ ạ, con chẳng tiếc gì anh chị ấy đâu. Mẹ con mình có vài nghìn mét, chia cho anh ấy một mảnh cũng chẳng đáng gì. Đất đai là lộc của bố mẹ cho, nhưng anh ấy đã chẳng đoái hoài. Con ghét nhất thái độ của chị dâu. Chị ấy cứ mở miệng là bảo chúng ta nhà quê. Rồi tỏ ý coi thường, chê ỏng eo cái nơi khỉ ho cò gáy này…”.
***
Hai mẹ con bà Mai về tới nhà lúc cuối chiều. Đường làng êm ru. Từ đầu làng Thức đã thấy hương đồng nội ập ào vào mình. Thức xin mẹ cho ở lại ăn cơm. Trong bữa ăn, Tôn chẳng nói gì dù bà Mai khơi nhiều chuyện vui. Xong bữa, Tôn sang hàng xóm uống nước chè. Trăng quê vành vạnh sáng. Hương sen, hương đồng bãi tràn về làm buổi tối bình yên quá đỗi. Thức trải chiếu ra giữa sân gạch ngồi ngắm trăng. Anh ôn lại chuyện xửa xưa với mẹ. Ký ức dắt anh trở về ấu thơ, Thức và Tôn vẫn chơi đùa, lấy mo cau làm thuyền để kéo nhau. Mỗi mùa gặt, ngõ thì phơi rơm, sân gạch phơi đầy thóc. Nhiều lần hai anh em lăn lộn trên sân rồi cười như ngô rang. Vạt ký ức êm đềm làm Thức rơm rơm mắt. Thoáng cái, hai anh em đã đầu hai thứ tóc. Nếp nhà cổ, tuy cũ kỹ nhưng Tôn đã sửa lại, khá đẹp. Ước gì… Tâm trạng anh bỗng trở nên rối bời. Sớm sau, khi chưa rõ mặt người, Thức về thành phố.
Trăng sao quê nhà đánh thức một điều nằm sâu trong Thức. Anh nhớ đến lời mời của người bạn. Cuối tuần, anh đưa vợ con về quê bạn. Vườn rau, ao cá, những vạt cỏ, chú chim, con gà làm hai con thích thú. Thằng Mít tha hồ chơi với bọn trẻ trong xóm, nhìn thấy con vật gì cũng hỏi. Còn cái Bông được cầm cần câu cá, mon men ra vườn hái rau. Nhìn thấy chuồn chuồn, bươm bướm, nó đã chịu cười nói nhiều hơn. Những hình ảnh ấy khiến Thức lặng đi. Phải rồi. Mình quá ích kỷ, đã mải chạy theo rất nhiều thứ vô nghĩa mà quên cuộc sống bình an. Rốt cuộc thì mình cần gì ở cuộc đời này? Tiền tài? Danh vọng? Hay một gia đình nhiều tiếng cười?
***
Ngày giỗ ông Mai, vợ chồng Thức đưa hai con về quê khiến bà Mai và Tôn bất ngờ. Vợ Tôn nấu nướng, nhặt rau, vợ Thức cũng xắn tay làm cùng. Nắng nhẹ chiếu lên hàng cau. Khi ngơi việc, vợ Thức còn ra vườn nhổ cỏ cho những luống hoa, khác hẳn người đàn bà ghê gớm bốn năm trước đã nói cạch cái làng này, không bao giờ về nữa. Tôn ngầm bảo vợ, cứ để chị ta làm, mọi chuyện rồi sẽ êm. Bà Mai mừng lòng khi thấy mấy đứa cháu quê nhà cứ ríu rít chơi với hai con của Thức.
Thức nói với các con, cho cả các cháu nghe: “Chơi ở cái sân này là thích nhất. Đây là nơi bố và chú Tôn thường đùa vui suốt tuổi niên thiếu. Có lần, bố nhảy từ trên bể nước xuống, va vào thùng nước tưới, đầu gối bị rách, máu tứa ra. Chú Tôn mếu máo khóc đi gọi bà. Cũng có lần hai anh thi xem ai là người cõng người kia được lâu nhất. Đến lượt chú Tôn cõng thì vì gầy quá, cái quần đùi tụt đến đầu gối”. Cái Bông đột nhiên nói: “Bố ơi, con thích ở đây!”. Thằng Mít hùa theo: “Con muốn chơi ở quê mình”. Thức cười: “Vậy bố sẽ đưa các con về ăn bám bà nội và chú thím”.
Tôn ở bên trong sắp lễ, nghe thấy hết lời anh và các cháu. Khi mâm cúng đã đủ, Tôn chủ lễ khấn cúng, bà Mai và Thức đứng chắp tay phía sau. Bà Mai cầu mong hai con đoàn kết. Còn Tôn thấy tim mình đập thình thịch. Anh tự hỏi, không biết cha có giận khi mình thử thách anh trai quá nặng? Liệu anh trai có thay tính đổi nết, hay chỉ vờ vĩnh cho mọi người cảm thông? Còn Thức thành tâm cầu khấn, xin Tôn hiểu lòng mình hơn, khi bản thân đã ân hận vì làm anh mà hành xử chưa đúng. Ở làng, chẳng ít “ông nọ bà kia” thoát ly, hiếm khi về làng, lúc cuối đời lại xin đất chôn thì ai nghe được. Người làng thật thà, chất phác, nhưng họ sẵn sàng quay mặt khi bị coi thường.
Ngồi cùng mâm, Tôn và Thức vẫn chưa nói chuyện với nhau, chỉ bọn trẻ cứ nhí nháu hồn nhiên gắp thức ăn. Vợ Thức buộc lòng lên tiếng xin lỗi trước. Lúc này Thức và Tôn mới nhìn thẳng mặt nhau. Thức nói: “Vợ anh đã có lời, anh cũng xin lỗi chú thím vì mình có phần trịch thượng. Hôm nay, ngoài về giỗ bố, vợ chồng anh cũng mong chú thím và các cháu bỏ qua những lời xúc phạm”. Rồi Thức nhìn sang bà Mai: “Con cũng xin lỗi mẹ. Con biết, mẹ rất đau lòng khi mấy năm qua tết nhất chẳng về, làm mẹ nghĩ ngợi. Chúng con thật bất hiếu”.
Tôn rót rượu, chạm cùng anh trai. Hương rượu quê nồng ấm. Hai người bắt tay nhau. Mắt bà Mai ngân ngấn nước, không phải vì buồn đau mà vì vui mừng. Hẳn ông nhà sẽ vui lắm. Vì vui nên bà nhấp một chút rượu cùng các con. Cơm xong, lúc uống trà, Tôn nói với Thức: “Anh chị và các cháu về là gia đình ta vui rồi. Đến chiều, em sẽ mượn thước, nhờ chú Phin sang chứng kiến, em chia cho anh chị mấy trăm mét đất phía cầu Móng, có vốn thì dựng lấy cái nhà. Cuối tuần anh chị đưa các cháu về quê. Em thấy các cháu thèm quê đó”. Vợ chồng Thức nhìn nhau, không giấu nổi niềm hạnh phúc.
Buổi chiều, việc chia chác diễn ra ổn thỏa. Vợ Thức và vợ Tôn tâm sự rất nhiều chuyện. Chập tối, trăng lên từ phía đầm sen, mang hương nồng nàn tràn vào sân, vào nhà, hòa với hương nhài, mộc hương. Bữa tiệc gia đình có ba vị khách nội tộc, cùng ngắm trăng. Trăng chan chứa cả vùng.
Sau này, khi có hai mẹ con, bà Mai hỏi Tôn: “Vì sao với người ngoài, con thoải mái thế, còn với anh trai lại có phần khắt khe?”. Tôn thưa: “Mẹ ơi, không thử thách thì vợ chồng anh ấy có biết nghĩ lại không ạ! Con chỉ muốn anh ấy đừng bao giờ coi thường người làng, và phải biết yêu cái gốc gác của mình”. Bà Mai gật đầu: “Cũng phải. Tốt quá rồi!”.
Song bà Mai cũng không biết, chính Tôn đã nhờ người bạn của Thức mời Thức về quê anh ta để chữa bệnh. Cái bệnh xa làng, thiếu quê hương nguy hiểm lắm.