Kết quả của dự án ghi dấu bước tiến quan trọng trong việc phát triển mô hình canh tác ca-cao bền vững gắn với tăng trưởng xanh và giảm phát thải carbon.
Cuối tháng 10, tại phường Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Tổ chức GIZ và Công ty PGPV tổ chức hội thảo tổng kết dự án “Sản xuất ca-cao tái sinh nhằm hỗ trợ phát triển sinh kế tại Việt Nam” nhằm đánh giá kết quả, chia sẻ kinh nghiệm và thảo luận các giải pháp phát triển ngành ca-cao bền vững tại Việt Nam.
Theo đánh giá, trong 5 năm, dự án đã cung cấp gần 90.000 cây giống cho 300 nông hộ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và Lâm Đồng, đi kèm hướng dẫn kỹ thuật và giám sát định kỳ; tổ chức 88 buổi tập huấn và trình diễn thực địa, thu hút hơn 2.000 lượt người tham gia, giúp nông dân áp dụng các thực hành nông nghiệp tái sinh, quản lý trang trại và phát triển kinh doanh. Các kỹ thuật do dự án giới thiệu chứng minh hiệu quả cả về kỹ thuật lẫn kinh tế. Cụ thể, hệ thống tưới nhỏ giọt giúp nông dân giảm tới 30% lượng nước sử dụng, tối ưu hóa hiệu quả phân bón qua hệ thống tưới và giảm đáng kể công lao động. Nông dân được hướng dẫn tận dụng phụ phẩm nông nghiệp và chất hữu cơ khác để sản xuất phân compost, góp phần cải thiện độ phì đất và giảm chi phí đầu vào. Các thực hành tái sinh này giúp cây ca-cao sinh trưởng tốt hơn trong điều kiện biến đổi khí hậu và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp bền vững, bảo vệ môi trường.
Dự án cũng đã xây dựng 8 vườn mô hình trình diễn tại Đắk Lắk và Lâm Đồng. Các nông hộ tham gia được chuyên gia dự án thường xuyên đến thăm, hướng dẫn kỹ thuật về các thực hành tái sinh như ủ phân từ vỏ ca-cao và phân bò, sử dụng dung dịch vi sinh và nấm trichoderma để quản lý sâu bệnh, cải thiện đất cũng như nuôi kiến vàng để phòng trừ sâu bệnh tự nhiên. Các mô hình này đã mang lại kết quả rõ rệt về năng suất, chất lượng ca-cao và hiệu quả bảo vệ môi trường.
Đặc biệt, có hai vườn mô hình ở xã Ea Knốp, tỉnh Đắk Lắk đã tăng năng suất hạt ướt lên gấp 1,5 lần so với trước khi áp dụng các phương pháp canh tác tái sinh. Điển hình là mô hình trồng ca-cao của hộ gia đình ông Vũ Văn Lứa, với 7.000 m² trồng từ năm 2007. Ông Lứa cho biết, khi tham gia dự án, ông được các kỹ sư, chuyên gia hướng dẫn kiến thức, kỹ thuật, quy chuẩn chăm sóc nên vườn ca-cao đạt năng suất cao, sản phẩm đạt chuẩn xuất khẩu. “Mỗi năm, tôi thu khoảng 5-6 tấn hạt ca-cao tươi, giá mỗi tấn 65 triệu đồng, mang lại thu nhập khoảng 350 triệu đồng mỗi năm; tất cả sản phẩm đều được bao tiêu. Canh tác ca-cao theo mô hình này không chỉ phát triển bền vững, tăng trưởng xanh mà còn góp phần giảm phát thải khí carbon”.
Dự án còn nâng cao các kỹ năng kinh doanh cho nông dân. Các hợp tác xã được hỗ trợ lĩnh vực tiếp thị, thương mại điện tử và xây dựng thương hiệu. Nông dân được hướng dẫn quảng bá sản phẩm trên nền tảng số, cải thiện bao bì để đáp ứng nhu cầu thị trường và phát triển thương hiệu. Sự kết hợp giữa hỗ trợ kỹ thuật và kinh doanh đã tăng khả năng tiếp cận thị trường, củng cố niềm tin và sự ổn định thu nhập của nông dân. Ông Daniel Herrmann, Trưởng khối chính sách khí hậu, Tổ chức GIZ Việt Nam cho biết: “Những bài học rút ra từ quan hệ đối tác phát triển giữa các đơn vị tham gia trong khuôn khổ dự án góp phần định hình các sáng kiến trong tương lai, mở rộng các thực hành canh tác tái sinh và trao quyền cho nhiều nông dân tham gia vào quá trình chuyển đổi xanh của Việt Nam”.
Đặc biệt, dự án cũng đã thử nghiệm những yếu tố ban đầu của một cơ chế tài chính carbon cộng đồng, nhằm bù đắp cho những nỗ lực của nông dân trong việc giảm phát thải khí nhà kính. Trong khuôn khổ sáng kiến này, nông dân được nhận khoản hỗ trợ khuyến khích khoảng 3.000-4.000 đồng cho mỗi cây sống trong hai đợt giám sát đầu tiên. Ông Justin Jacquat, quản lý ca-cao khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Công ty PGPV chia sẻ: “Chúng tôi hợp tác với Tổ chức GIZ bởi cả hai bên chia sẻ tham vọng xây dựng chuỗi giá trị ca-cao không chỉ hiệu quả về năng suất, mà còn mang tính tái sinh, bao trùm và bền vững trong tương lai”. Cùng với nâng cao năng suất, Công ty PGPV còn chú trọng nâng cao kiến thức cho nông dân, cải thiện khả năng truy xuất nguồn gốc, đặt nền móng cho một ngành ca-cao không gây mất rừng, phù hợp với các quy định của Liên minh châu Âu trong thời gian tới. Đồng thời, chương trình Cocoa Trace của công ty cam kết thu mua ca-cao ổn định, dài hạn.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đắk Lắk Đặng Thị Thủy cho biết: Cây ca-cao được xem là một hướng đi tiềm năng giúp đa dạng hóa cây trồng, tăng thu nhập, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu tại địa phương. Hiện nay, tỉnh đang xây dựng Đề án phát triển cây ca-cao bền vững, với mục tiêu hình thành chuỗi giá trị ca-cao bảo đảm hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường, hướng tới phát thải thấp, tăng trưởng xanh và hội nhập quốc tế.
Đắk Lắk đặt mục tiêu, đến năm 2030, mở rộng diện tích ca-cao lên khoảng 1.300 ha, sản lượng 1.400 tấn; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu, xây dựng thương hiệu “Ca-cao Đắk Lắk” và kết nối thị trường xuất khẩu. “Thông qua dự án này với nhiều kinh nghiệm và sáng kiến hay giúp tỉnh Đắk Lắk tiếp tục hoàn thiện chính sách, định hướng phát triển cây ca cao và nông nghiệp bền vững, góp phần thực hiện thành công mục tiêu nông nghiệp xanh, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh trên địa bàn trong thời gian tới”, bà Đặng Thị Thủy cho biết.
Kết quả từ dự án “Sản xuất ca-cao tái sinh nhằm hỗ trợ phát triển sinh kế tại Việt Nam” triển khai tại tỉnh Đắk Lắk và Lâm Đồng là minh chứng cho phương thức canh tác nông nghiệp tái sinh và mô hình kinh doanh bao trùm, có thể xây dựng ngành ca-cao chống chịu, cạnh tranh và thân thiện với khí hậu tại Việt Nam, đặt nền móng cho hành trình phát triển ngành ca-cao bền vững.