Phía nam sông Hậu ở An Giang có nhiều làng làm ngư cụ hơn 40 năm tuổi nổi tiếng khắp vùng châu thổ được Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận là làng nghề truyền thống như: Nghề lưỡi câu Mỹ Hòa, nghề lợp lươn Cần Đăng, nghề lợp cua Mỹ Đức, nghề đan lợp bắt cá linh cồn Cóc... Những ngày này, các hộ dân làng nghề lợp lươn Cần Đăng, xã Cần Đăng tăng tốc để kịp giao cho mối lái. Ông Nguyễn Văn Năm Hai, ngụ ấp Cần Thới sống với nghề lợp lươn hơn 30 năm, cho hay: “Năm trước, mọi người nghĩ lũ lớn sẽ về nhưng không ngờ lũ lại nhỏ. Năm nay nghĩ lũ nhỏ thì bất ngờ nước lớn cho nên lúc này lợp bán chạy”. Ông Năm Hai không giấu được vẻ tự hào: Lợp vùng này được thương lái các tỉnh, thành phố đến đặt mua do tay nghề thợ ở đây khéo léo, làm ra những chiếc lợp bền chắc, mẫu mã đẹp.
Một cái lợp lươn giá từ 20.000 đến 25.000 đồng, từ kinh nghiệm làm lợp lươn, các thợ thầy nghiên cứu làm thêm lợp ếch, lợp tép, lợp cá chạch... kiếm thêm thu nhập. Nghề ngư cụ sống dựa vào mùa nước cho nên năm nào nước thấp, lợp tiêu thụ chậm lại. Tại xã Cần Đăng đến nay duy trì hơn 30 hộ
làm lợp, sau này, các thợ cải tiến sản phẩm, nhờ đó làng nghề hoạt động quanh năm. Ông Năm Hai cho biết: “Vùng ven biển nước lợ như Vĩnh Long hay Cà Mau còn nhiều rừng cây, lươn đồng, ếch nhiều, nhu cầu mua lợp cao. Ban đầu, thương lái mua lợp bằng tre về miệt đó bán nhưng tre gặp nước lợ mau hư mục. Từ đó, chúng tôi làm lợp bằng ống nhựa hay inox chịu được nước lợ, thời gian sử dụng lâu hơn”.
Các làng nghề làm lợp cua Mỹ Đức, lưỡi câu Mỹ Hòa cũng chộn rộn theo con nước dù lượng hàng hóa làm ra không nhiều như những năm trước, nhưng mọi người đều vui vì có việc làm. Còn nghề làm lợp cá linh ở cồn Cóc, xã Nhơn Hội mang nét độc đáo riêng của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Các ngư dân khi bắt cá linh đều dùng chài, lưới, dớn nhưng người dân vùng này đặt lợp bắt. Anh Nguyễn Minh Ngà, một thợ làm lợp cá linh và chuyên bắt cá linh trong mùa nước nổi chia sẻ, cá linh mê mồi cám ủ cho nên để mồi vào lợp dụ cá kéo vào ăn. Cá linh dính lợp có kích cỡ to bằng ngón tay giữa trở lên chủ yếu dùng ủ nước mắm hay ủ mắm. Nghề đặt lợp cá linh không tốn nhiều công sức: ngư dân đặt lợp canh khoảng chừng vài tiếng lại dỡ lợp lên rồi đặt tiếp, một ngày với hơn 50 cái lợp có thể bắt vài chục ký (kg) cá linh. Lợp cá linh chủ yếu bán cho người dân các xã đầu nguồn sông Hậu, những nơi ruộng đồng, bãi bồi bị nước nổi vào dâng ngập hơn 1,5m. Anh Ngà kể, lợp cá linh làm bằng tre, trải qua nhiều công đoạn mới làm xong. Những năm trước, làng nghề có hàng chục người làm lợp, cung ứng cả nghìn cái lợp nhưng theo thời gian rơi rớt còn lại vài người và mọi hoạt động đều ngóng trông theo con nước.
Xuôi về hạ lưu sông Hậu, có làng nghề làm dầm chèo nổi tiếng Thới Hòa, phường Mỹ Thới. Sáng sớm, khu vực khóm Thới Hòa đã vang tiếng cưa cây, tiếng đục, tiếng bào cây. Ông Nguyễn Văn Nên, cặm cụi cầm búa gọt phần lưỡi mái chèo cho hay, năm nay ông 66 tuổi thì đã có hơn 45 năm gắn với nghề làm dầm chèo. Bây giờ, lớn tuổi, sức khỏe yếu, ông Nên chỉ phụ con trai “tỉa tót” lại cho mép lưỡi chèo phẳng phiu hơn... Qua trò chuyện với ông, ký ức xưa lại gợi nhớ những ngày náo nhiệt xóm dầm. Thời cực thịnh, xóm làm mái có hàng chục cơ sở nằm san sát nhau và có điểm chung là không có tên. Lúc đó, mỗi một cơ sở thu nhận hàng chục lao động, từ tháng 4 đến tháng 6 tiếng cưa máy, tiếng bào cây, tiếng búa đục cứ vang lên suốt để làm ra sản phẩm kịp đón mùa nước về.
Vùng đồng bằng kênh rạch nhiều, nhiều nơi vẫn dùng xuồng, tắc ráng đi lại cho nên nghề dầm chèo hoạt động suốt năm nhưng mạnh nhất vẫn là mùa nước nổi. Nhưng sau này nước nổi thất thường, mua bán dầm ế ẩm khiến làng dầm chèo nổi tiếng khắp vùng châu thổ thưa thớt dần. Trong khó khăn, các cơ sở tìm cách trụ lại với nghề. Anh Nguyễn Văn Việt, một người dân ở đây cho hay: Dầm chèo làm ra nhiều loại, loại dầm dài nhất là 2,2m bán cho các vùng biển vì nơi đó mặt nước sâu, còn dầm 1,3m tới 1,8m bán cho vùng sông nước. Hiện chỉ còn 3 cơ sở hoạt động, năm nay nước lớn, dầm chèo đắt hàng so với các năm trước.
Nhìn anh Hồ Kiến Bình hì hục cầm bào đẩy tới đẩy lui bào cây dầm cho từng vân gỗ trơn láng mới hiểu được sự tận tụy với nghề. Theo từng nhịp bào, mùn cưa văng ra bám vào người, mồ hôi Bình chảy ướt áo cho nên khi bào phải cởi trần cho bớt ngứa. Theo anh Bình, dầm chèo có nhiều nơi sản xuất nhưng dầm Thới Hòa vẫn nổi danh nhất về độ tinh xảo khi tay cầm được thợ tỉ mẫn bào láng mịn để người cầm chèo chống không bị đau tay. Anh Bình tự hào kể: “Thợ chúng tôi tự đặc chế làm ra cái bào. Nhiều nơi khác dùng giấy nhám hay cưa, dao vạt khiến thân cây dầm xù xì, cầm bị xước tay”.
Anh Bình tâm sự, làm thợ dầm hơn 25 năm, để làm ra một cây dầm phải qua nhiều công đoạn. Anh thường nhận làm khâu bào dầm và cứ một cây như vậy được trả công 4.000 đồng, một ngày làm tối đa 80 cây dầm. Dù mùa nước nổi thất thường nhưng miền tây kênh rạch bao la, người dân vẫn xài xuồng ghe, tàu đi lại và ai cũng cần dầm chèo để dùng. Bởi vậy, nghề làm dầm dù thu hẹp, những thợ lành nghề như anh Bình vẫn kiên nhẫn bám trụ với nghề, không phải bôn ba xa xứ.