Trung tá Nguyễn Cảnh Lương nhớ lại những năm tháng chiến đấu hào hùng, gian khổ tại mặt trận Quảng Trị.
Trung tá Nguyễn Cảnh Lương nhớ lại những năm tháng chiến đấu hào hùng, gian khổ tại mặt trận Quảng Trị.

Người lính già và ký ức về 81 ngày đêm “mưa đỏ” bảo vệ Thành cổ Quảng Trị

Cuộc chiến đấu anh dũng trong 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị (từ ngày 28/6 đến 16/9/1972) như bản tráng ca hào hùng đi vào lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta.

Tại chiến trường vô cùng ác liệt này, hàng nghìn người con ưu tú của Tổ quốc đã ngã xuống. Máu, xương của các anh đã hóa thân vào từng tấc đất, hòa vào mênh mang sóng nước của dòng Thạch Hãn.

Máu trộn với bùn

Chúng tôi đến thăm căn nhà nhỏ của Trung tá Nguyễn Cảnh Lương (sinh năm 1952) ở xã Vạn An, tỉnh Nghệ An sau cơn bão số 5 vài ngày. Ông Lương hiện là Chủ tịch Hội chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 Nam Đàn, Ban Chấp hành Hội chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 tỉnh Nghệ An.

buc-anh-nhung-nguoi-hung-tai-thanh-co-quang-tri-tu-lieu-bao-tang-lich-su-quoc-gia-7313.jpg
Bức ảnh Những người hùng tại Thành cổ Quảng Trị. (Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)

Dòng ký ức đưa ông quay trở lại năm 20 tuổi, khi đó, đảng viên trẻ, Bí thư Đoàn thanh niên Hợp tác xã Lam Sơn (xã Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương cũ, Nghệ An) Nguyễn Cảnh Lương xung phong ra trận. Hành trang anh mang theo là lòng yêu nước, căm thù giặc và kinh nghiệm của những ngày tháng phụ trách khẩu đội súng 12 ly 7 bảo vệ bầu trời quê hương trên đỉnh núi Nguộc.

Sau 3 tháng huấn luyện và một tháng hành quân bộ, ngày 20/6/1972, người lính trẻ Nguyễn Cảnh Lương trong đội hình Đại đội 2, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 27 (Trung đoàn Triệu Hải), Quân khu 4 có mặt trong đội hình vượt sông để sang Thành cổ, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu có tính chất quyết định đến mặt trận ngoại giao cách đó trên dưới 10.000km.

Ngày 28/6/1972, họ chính thức bước vào cuộc chiến đấu giữ Thành. Ngày nối ngày, đêm nối đêm, họ sống, chiến đấu, nằm lại trên khoảng chiến trường chỉ vỏn vẹn 3km2 ấy. Người trước ngã xuống, người sau được bổ sung, chưa kịp biết tên nhau, đơn vị đã “mòn” đi.

Ánh mắt nhìn xa xăm, người cựu binh chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị hồi tưởng về những tháng năm chiến đấu gian khổ, oanh liệt.

“Lâu rồi nên có nhiều chuyện tôi không còn nhớ rõ nữa. Bấy giờ tiểu đội tôi cùng Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 27 làm nhiệm vụ chốt chặn phía trước. Đối diện chúng tôi là Đoàn 147 - Sư đoàn thủy quân lục chiến ngụy…

Mùa hè năm ấy, trong Thành cổ Quảng Trị có đến 3 mùa mưa “mưa bom bão đạn của quân thù, mưa của thời tiết với trận lụt lịch sử và mưa đỏ”. Mưa đỏ, chính là máu, là xương, là thân thể của lớp lớp người lính đã ngã xuống trong trận chiến bảo vệ khu thành cổ. Hết những ngày hè như nung, da thịt cháy khét mùi thuốc súng, là mưa, mưa “thối trời thối đất”, nước lũ dâng lên ngập cả hầm hào”, Trung tá Nguyễn Cảnh Lương nhớ lại.

Những ngày tháng đó, phải nói sức chịu đựng của anh em thật phi thường, nhưng thương vong nhiều quá. Có những người nằm xuống, anh em chôn xong, bom lại cày lên...

Trung tá Nguyễn Cảnh Lương

Trung tá Nguyễn Cảnh Lương cho biết: “Năm đó, lũ tràn vào Thành cổ to lắm, chúng tôi ngồi trong hầm, nước bùn ngập đến bụng, đầu đầy chấy, trên da ghét bẩn, đất bám thành từng tấm. Bom đạn vãi xuống như mưa, anh em bị thương, hy sinh, máu trộn với bùn, đói vì hậu cần không thể tiếp tế vào đến nơi”.

Trong 81 ngày đêm, thị xã và Thành cổ Quảng Trị phải gánh chịu 328.000 tấn bom đạn, tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử Mỹ đã ném xuống Hiroshima Nhật Bản năm 1945.

Trung bình mỗi chiến sĩ phải hứng lấy 100 quả bom, 200 quả đạn pháo. Mỗi ngày có 1 đại đội vượt dòng Thạch Hãn để tiếp viện quân số, nhưng đêm nay 1 đại đội tiến vào thì ngày mai chỉ còn lại vài người sống sót.

"Những ngày tháng đó, phải nói sức chịu đựng của anh em thật phi thường, nhưng thương vong nhiều quá. Có những người nằm xuống, anh em chôn xong, bom lại cày lên...”, Trung tá Nguyễn Cảnh Lương bỏ lửng câu nói, nhìn xa xăm vào màn mưa trắng xóa trước cổng nhà.

Ngày 16/8/1972, trong lần tấn công đẩy lùi địch, người lính Nguyễn Cảnh Lương bị thương, khi một mảnh pháo địch trúng đầu. Anh được đưa về trạm phẫu phía sau để điều trị.

img-20250908-104812-8017.jpg
Những tấm huân, huy chương - minh chứng cho những năm tháng ông Lương đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Bò vào lòng địch, tìm và đưa đồng đội hy sinh trở về

Đầu tháng 9/1972, khi vết thương chưa lành hẳn, Trung sĩ Nguyễn Cảnh Lương nằng nặc xin sang sông, tiếp tục chiến đấu. Thành cổ mưa trắng trời, nước lũ sông Thạch Hãn dâng cao, tràn vào hầm, hào.

Nhiệm vụ đầu tiên khi có mặt ở đơn vị của ông là cùng 4 đồng đội khu vực chiếm đóng của địch, tìm và đưa 3 liệt sĩ của đơn vị trở về, trong đó có đại đội phó tên Ngọc.

“Rất nguy hiểm, song không thể để anh em nằm lại bên đó, phơi mưa, phơi nắng được”, ông Lương chia sẻ.

Từ chập tối, 5 người ẩn mình trong bóng tối, vượt qua những hố bom, hố đạn đặc quánh bùn lầy, nhích từng chút vào sâu trong lòng địch. Dưới sức mạnh bom, đạn hạng nặng của quân thù, địa hình có thể thay đổi chỉ sau một đợt tấn công. Bởi vậy, đến 2 giờ, họ vẫn chưa tìm thấy những người đồng đội của mình, chưa kể có thể lọt vào ổ phục kích của địch bất kể lúc nào.

Mò mẫm mãi, họ khựng lại khi phát hiện 3 đồng đội của mình trên mô đất, được xếp hàng ngang ngay ngắn. Sự bất thường này khiến họ cảnh giác, có thể đây là một cái bẫy được phía bên kia giăng ra...

Anh ra hiệu mọi người tìm nơi ẩn nấp, rồi bò lại gần nơi 3 đồng đội đang nằm, dùng tay để kiểm tra khu vực xung quanh. Đúng như dự đoán, ngay phía trước thi thể thứ nhất là một quả lựu đạn US đã tháo chốt, được gài bên trong vỏ lon sữa. Chỉ cần xê dịch, khiến vỏ lon rơi ra là sẽ phát nổ, bán kính sát thương lên tới 30m.

Nếu không kịp phát hiện chiếc bẫy đạn này, có thể họ đã hy sinh hoặc trở thành những tấm bia sống để bọn tập kích, thám báo ẩn nấp đâu đó vãi đạn vào...

Sau khi vô hiệu hóa quả đạn thứ nhất, Trung sĩ Lương nhích dần sát 3 thi thể, phát hiện quả lựu đạn thứ 2 được ngụy trang như cũ, đặt dưới chân thi thể nằm giữa và nhanh chóng vô hiệu hóa nó.

“3 anh em nằm đó, người đầu tiên, khuôn mặt trúng đạn pháo, không thể nhận diện được. Trong tay anh cầm chiếc la bàn, tôi nghĩ, đây có thể là anh Ngọc, vì thường chỉ có cán bộ cấp đại đội trở lên mới có la bàn để dùng”, người lính già nhớ lại.

5 người không thể đưa 3 thi thể trở về, anh phân công một đồng chí về đơn vị xin bổ sung lực lượng vận tải. Còn lại 2 người vừa kéo vừa đẩy, lựa vào giao thông hào đầy bùn nước để đưa đồng đội trở về.

Hai kíp nổ tháo từ 2 quả lựu đạn US được ông bàn giao lại cho đơn vị, còn chiếc la bàn của đồng đội đã hy sinh được ông giữ lại cho đến tận bây giờ.

nguyen-canh-luong81-ngay-demthanh-conghe-anhoang-lam-3jpg-1756611113234-8332.png
Chiếc la bàn của đồng đội đã hy sinh được ông giữ lại cho đến tận bây giờ.

Đến ngày 16/9/1972, khi lực lượng của ta rút khỏi Thành cổ Quảng Trị, trong 81 ngày đêm, đã có hơn 4.000 người lính nằm lại nơi đây; trong đó đơn vị của ông Lương có 299 người hy sinh.

Trung sĩ, Tiểu đội Trưởng Nguyễn Cảnh Lương cùng Trung đoàn 27 sau đó tiếp tục thực hiện nhiệm vụ tại thị xã Quảng Trị cho đến ngày 5/10/1973, chuyển sang nhiệm vụ khác. Ông ra bắc học, sau đó trở lại quân ngũ, công tác đến khi nghỉ hưu với cấp hàm Trung tá.

Để giành được độc lập, tự do gian khổ lắm, không biết bao nhiêu là mất mát, hy sinh.

TRUNG TÁ NGUYỄN CẢNH LƯƠNG

Chiến tranh đã lùi xa nhưng trong lòng ông vẫn canh cánh nhiều điều, về những người đồng đội, đồng chí của mình, về cả những người ở bên kia chiến tuyến.

Những năm sau này, khi có thời gian và ổn định kinh tế, ông nhiều lần trở lại thăm Quảng Trị, thăm Thành cổ, thắp nén hương cho đồng đội, những người đã sát cánh cùng ông chiến đấu trên mảnh đất này và nằm lại nhưng chưa kịp biết tên nhau.

“Để giành được độc lập, tự do gian khổ lắm, không biết bao nhiêu là mất mát, hy sinh”, ông Lương xúc động.

img-20250908-104727-9083.jpg
Theo Trung tá Nguyễn Cảnh Lương: “3 anh em nằm đó, người đầu tiên, khuôn mặt trúng đạn pháo, không thể nhận diện được. Trong tay anh cầm chiếc la bàn, tôi nghĩ, đây có thể là anh Ngọc, vì thường chỉ có cán bộ cấp đại đội trở lên mới có la bàn để dùng”.
(Ảnh: Vĩnh Khang)

Theo Thượng tá Nguyễn Xuân Cận, Chủ tịch Hội chiến sĩ thành cổ Quảng Trị năm 1972 tỉnh Nghệ An, với mong muốn đàm phán trên thế mạnh, địch tập trung tối đa lực lượng để chiếm lại thị xã và Thành cổ bằng mọi giá. Đối với ta, trụ vững, bảo vệ thị xã và Thành cổ Quảng Trị càng lâu càng tốt là một yêu cầu rất cao đối với các đơn vị giữ Thành.

Bằng sự phối hợp chặt chẽ giữa 3 thứ quân, kết hợp giữa phòng ngự và tiến công, quân và dân trên mặt trận thành cổ Quảng Trị đã tạo thế trận liên hoàn, đẩy lùi và bẻ gãy hàng trăm cuộc phản kích điên cuồng của địch. Cuộc chiến đấu giành giật từng mảnh vườn, từng mét đất, vô cùng gian khổ, ác liệt.

Chiến công vang dội đó là một dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, góp phần quan trọng buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, hoàn thành nhiệm vụ chiến lược “đánh cho Mỹ cút”, tạo điều kiện, thời cơ tiến lên “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước.

Xem thêm