Bác sĩ phẫu thuật lấy khối bướu giáp cho bệnh nhân.
Bác sĩ phẫu thuật lấy khối bướu giáp cho bệnh nhân.

Loại bỏ khối bướu giáp khổng lồ cho bệnh nhân

Suốt 40 năm phát hiện bướu giáp nhưng không loại bỏ, nữ bệnh nhân đối mặt với tình trạng bướu phát triển thòng xuống trung thất, làm thay đổi hoàn toàn cấu trúc các cơ quan vùng cổ của bệnh nhân.

Thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa I Phạm Hưng, khoa Ngoại Lồng ngực-Mạch máu, Bệnh viện đa khoa Tâm Anh Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, bệnh nhân N.T.N (66 tuổi) có biểu hiện khó thở, nuốt nghẹn hai tháng nay. Vùng cổ bệnh nhân phình to do có bướu giáp khổng lồ, kích thước 10×8cm.

Hình ảnh CT cho thấy bướu chiếm toàn bộ tuyến giáp, chèn ép khí quản và thực quản, đẩy lệch khí quản sang bên phải và thòng xuống ngực (bướu giáp thòng trung thất). Đây là bệnh lý lành tính, chỉ tình trạng bướu cổ (bướu giáp) phát triển lớn lên, vượt qua vùng cổ và lan xuống trung thất.

Theo lời kể của bệnh nhân, bướu giáp hình thành từ hơn 40 năm trước, lúc đầu chỉ là một khối u kích thước trung bình. Cách đây 5 năm bà đi khám ở một bệnh viện khác, được tư vấn mổ nhưng một phần vì sợ phẫu thuật, mặt khác do u không gây triệu chứng khó chịu nên bà từ chối điều trị.

Thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa I Lê Thị Ngọc Hằng, khoa Ngoại Lồng ngực-Mạch máu, Bệnh viện đa khoa Tâm Anh Thành phố Hồ Chí Minh nhận định, bướu giáp làm thay đổi hoàn toàn cấu trúc các cơ quan vùng cổ của bệnh nhân. Khí quản bị đẩy lệch từ trái qua phải, thực quản bị đè ép làm thu hẹp đường kính.

Bướu cũng chèn ép các mạch máu và cơ quan khu vực trung thất. Nếu không phẫu thuật sớm, bướu tiếp tục phát triển có thể gây nhiều biến chứng nghiêm trọng như chèn ép đường thở dẫn tới suy hô hấp cấp tính đe dọa tính mạng, khó nuốt, nuốt nghẹn, khàn tiếng hoặc liệt dây thanh âm, ho mạn tính, sặc…

Bác sĩ Hằng đánh giá do bướu “khủng” nên tăng sinh rất nhiều mạch máu, nguy cơ chảy máu, không thể cầm máu trong lúc mổ rất cao. Ngoài ra, bướu dính chặt các mô và cơ quan lân cận nên khả năng cao phải rạch xương ức để lấy ra. Tuy nhiên, bệnh nhân và người nhà mong muốn ca mổ diễn ra nhẹ nhàng, giảm thiểu nguy cơ mất nhiều máu, nhiễm trùng. Do đó, ê-kíp quyết định tiếp cận khối u từ đường cổ như thông thường, nếu không thể mới chẻ xương ức.

Bác sĩ mở đường mổ 6 cm ở cổ, cẩn thận bóc tách bướu để tránh làm thủng khí quản, thực quản, không làm rách các mạch máu lớn. Ca phẫu thuật diễn tiến thuận lợi. Sau 2 giờ cam go, toàn bộ khối u được lấy ra mà không cần mở đường ngực. Bệnh nhân chỉ mất tổng lượng máu 80ml (dưới 100ml là trong giới hạn an toàn). Kết quả giải phẫu bệnh sau đó xác định u lành tính.

Bệnh nhân hồi phục nhanh, không gặp các biến chứng thường thấy sau mổ bướu giáp như chảy máu, khó thở, nhiễm trùng, thay đổi giọng nói, tê tay chân, suy giáp. Bà xuất viện 3 ngày sau đó.

Bác sĩ Hưng thông tin, bướu giáp thòng chiếm tỷ lệ 5-15% trong số các trường hợp bướu cổ. Yếu tố nguy cơ và nguyên nhân bệnh gồm thiếu i-ốt, bướu giáp đa nhân, u tuyến giáp, nang tuyến giáp, viêm tuyến giáp mạn tính, thay đổi hormone khi mang thai, các bệnh tự miễn (Hashimoto và Graves), di truyền.

15-50% người bệnh bướu giáp thòng không có triệu chứng trong thời gian dài. Bệnh thường được phát hiện tình cờ khi chụp X-quang ngực hoặc CT scan khi khám bệnh khác. Khi bướu lớn dần, các triệu chứng bắt đầu xuất hiện do bướu chèn ép các cấu trúc ở cổ và ngực, đặc biệt là khí quản và thực quản. Lúc này, người bệnh sẽ có biểu hiện khó thở, khó nuốt, khàn tiếng, ho, thở rít, cảm giác nghẹn ở cổ, đau ngực…

Để giảm nguy cơ hình thành bướu giáp thòng, mỗi người cần bảo đảm chế độ ăn đủ i-ốt, hạn chế thực phẩm thúc đẩy bướu giáp phát triển gồm rau họ cải (bắp cải, súp lơ, cải xoăn), đậu nành, đậu phộng. Kiểm tra sức khỏe định kỳ, khám tuyến giáp.

Mọi người cần đi khám để được điều trị kịp thời và hiệu quả các bệnh tuyến giáp như cường giáp, suy giáp, viêm tuyến giáp. Can thiệp sớm các bướu giáp ở cổ (do bất kỳ nguyên nhân nào) nhằm ngăn chặn bướu tiến triển và di chuyển xuống ngực.

Xem thêm