Nhà nông học-kỹ sư Hồ Quang Cua bên thửa ruộng lúa giống ST25. (Ảnh: Nguyễn Thanh Phong)
Nhà nông học-kỹ sư Hồ Quang Cua bên thửa ruộng lúa giống ST25. (Ảnh: Nguyễn Thanh Phong)

Hành trình hạt gạo cứu đói trở thành "ngon nhất thế giới"

Biết bao thế hệ các nhà khoa học đã đồng hành cùng người nông dân miệt mài nghiên cứu, canh tác trên đồng ruộng để đưa cây lúa Việt Nam phát triển vượt bậc.

Từ những hạt giống thuần Việt đầu tiên nhằm rút ngắn ngày, tăng năng suất để cứu đói, cây lúa hôm nay đã đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu và sở hữu loại gạo “ngon nhất thế giới”.

Khi tìm những dấu mốc nghiên cứu khoa học về cây lúa Việt Nam, chúng tôi nhận ra, người có thể coi là “bắt đầu” cho hành trình lai tạo giống lúa “made in Vietnam” đến người được gọi là “cha đẻ” của loại gạo ngon nhất thế giới, đều có cùng một quê hương: Sóc Trăng (nay là Cần Thơ). Vậy là, giữa những ngày hè tràn ngập nắng gió, chúng tôi lên đường về Sóc Trăng, đến với vựa lúa Đồng bằng sông Cửu Long.

Bác sĩ nông học đầu tiên “định danh” cây lúa Việt

Ngược về hơn 120 năm trước, khi đặt chân lên mảnh đất này, người Pháp đã nhận thấy kho báu vô giá từ cây lúa Việt Nam. Dòng kênh Xáng Xà No huyền thoại là minh chứng cho “con đường lúa gạo” đầu tiên được xây dựng để mang những hạt lúa quý giá của Đồng bằng sông Cửu Long màu mỡ đi xuất khẩu. Lịch sử ghi nhận thời kỳ thuộc Pháp 1921-1924, hạt gạo Việt Nam đã xuất khẩu đạt 1 triệu tấn/năm, rồi tăng lên 2 triệu tấn vào năm 1939.

Thế nhưng, lịch sử lại ghi dấu một ký ức kinh hoàng về nạn đói làm chết hơn hai triệu người Việt Nam năm 1945 - “đêm trước” của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Chính người nông dân đã vùng lên giành lại độc lập, tự do, hiện thực hóa khát vọng tự làm nên hạt gạo trên chính đồng ruộng của cha ông mình. Nhưng đất nước những năm chiến tranh là lúc lượng lúa gạo giảm mạnh, đến năm 1954 chúng ta chỉ còn xuất khẩu 0,52 triệu tấn. Trong bối cảnh vừa chiến tranh vừa đói kém, năm 1952, nhà nông học Lương Định Của nghe theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã từ Nhật Bản trở về nước để đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Để giải quyết nhiệm vụ cấp bách là cứu đói, nhà nông học Lương Định Của đã lai tạo thành công giống lúa ngắn ngày, có năng suất tốt và đặc biệt chống chịu được sâu bệnh, thời tiết. Giống Ba Thắc của Nam Bộ được lai tạo với lúa Nhật Bản thành giống lúa Nông nghiệp 1 để gieo trồng vào vụ hè thu, giống lúa Chiêm 314 cho vùng đất trũng sâu; giống lúa Thần Nông 307, NN75-1, NN8-388… tăng năng suất từ 20-30% so với các giống lúa cũ và khả năng chịu sâu bệnh tốt...

Người nông dân thế hệ trước vẫn luôn ghi nhớ công ơn của ông với vai trò đề xuất chủ trương đắp bờ vùng bờ thửa, làm thủy lợi nội đồng để việc canh tác lúa đi vào thâm canh, tăng vụ. Đồng thời, nhiều quy trình cấy lúa mới đều được ông cải tiến nhờ ứng dụng kinh nghiệm của Nhật Bản để giúp bà con nông dân. Cuộc cách mạng về thay đổi giống lúa và kỹ thuật canh tác do ông khởi xướng đã đưa năng suất lúa bình quân tăng từ 1,5 tấn/ha lên 5-6 tấn/ha.

Có thể nói, di sản hơn 40 giống cây trồng và nhiều công trình nghiên cứu nông nghiệp ứng dụng của ông đã tạo tiền đề cho ngành lúa sau này.

Người đưa lúa gạo Việt lên đỉnh cao của thế giới

Trại nghiên cứu giống lúa ST của kỹ sư nông học Hồ Quang Cua cách không xa khu Nhà tưởng niệm nhà nông học Lương Định Của. Ngồi trong “chòi ngắm lúa” bên những mảnh ruộng canh tác giống lúa đang được gọi là “hoa hậu” với “biệt danh “ST” từ số 1 đến 25”, ông Hồ Quang Cua kể, từ 1978-1993, ông là cán bộ huyện ở vùng nước lợ Mỹ Xuyên, vùng đất nức tiếng vì gạo thơm chớ không chỉ là gạo ngon. “Thời kỳ đó ra ngõ bốn hướng đều chỉ gặp cây lúa. Sống với nông dân, rong ruổi nơi đồng quê mãi, tôi cũng kết tình với cây lúa quê mình”, ông Cua tâm sự.

Mối duyên với việc lai tạo ra hạt gạo thơm ngon được khởi nguồn từ năm 2002, khi người kỹ sư nông nghiệp nhận ra một khoảng trống trong lai tạo giống lúa mới. Tìm kiếm sự khác biệt - lai tạo lúa thơm, điều chưa ai tính đến, ai ngờ là một hành trình kéo dài suốt 18 năm ròng. “Chuỗi thời gian này thật là dài với một đời người, nhưng tôi không cảm thấy điều đó vì nghiên cứu là công việc tự nguyện”. Ký hiệu giống lúa được viết tắt từ hai chữ Sóc Trăng, đánh số từ 1 cho đến số 25 là cả một kỳ công của ông và các cộng sự. Để rồi, đến ngày được nếm trải niềm hạnh phúc vô cùng lớn khi lai tạo ra loại gạo có mùi thơm không lẫn với bất kỳ giống lúa nào trên thế giới…

“Từ lai xa giữa các giống/dòng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long với các giống/ dòng ở Đồng bằng sông Hồng đến lai giữa loài phụ Oryza sativa Indiaca với loài phụ Oryza sativa Japonica (lúa tám xoan) để kết hợp hai mùi vị khác nhau là thơm dứa (giống phía nam) với thơm cốm (giống phía bắc), chúng tôi đã tạo nên hạt gạo chất lượng cao có hương thơm khác biệt”, ông Cua chia sẻ.

Khi bước ra thế giới, với nhiều phẩm chất vượt trội hạt gạo ST đã chinh phục vị trí đỉnh cao. Năm 2017, gạo ST24 được vinh danh “gạo ngon nhất thế giới” tại Hội nghị quốc tế lần thứ 9 về mua bán gạo do The Rice Trader tổ chức tại Ma Cao (Trung Quốc). Sau đó hai năm, gạo ST25 đã xuất sắc vượt qua gạo Thái Lan, giành giải Nhất cuộc thi gạo ngon nhất thế giới. Năm 2023, thương hiệu gạo ST25 một lần nữa được vinh danh ở vị trí số một thế giới…

tu-hat-gao.jpg

Câu chuyện từ khoảnh ruộng gần 50 năm trồng thử nghiệm lúa

Góp phần định danh lúa gạo Việt Nam, không thể không nhắc đến cố Giáo sư Võ Tòng Xuân. Một nắng hai sương gắn bó cùng cây lúa, ông là tấm gương điển hình của các nhà khoa học về cây lúa, khi vừa nghiên cứu nên giống lúa cao sản IR8, IR36 vừa đồng thời là người phổ biến kỹ thuật canh tác lúa nước cải tiến cho vựa lúa gạo của cả nước.

Năm 1972, khi dịch rầy nâu phát triển mạnh, tàn phá giống lúa, ông đã liên tục đi xin giống và nhân rộng giống IR26 và IR30… Là người đưa khoa học hiện đại vào canh tác, đề xuất mô hình “cánh đồng mẫu lớn”, Giáo sư Võ Tòng Xuân cũng là người đề xuất triển khai mô hình “5 nhà” để tăng hiệu quả sản xuất, bảo đảm đầu ra, nâng cao giá trị gạo Việt.

Hiện nay, năng suất lúa của Việt Nam cao nhất Đông Nam Á đạt 5-7 tấn/ha, gần gấp đôi so với Thái Lan và gấp 1,5 lần so với Ấn Độ. Gạo Việt Nam đang hiện diện ở 150 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, một trong những đặc điểm của giống lúa dù “ưu việt” đến mấy cũng chỉ thường hiệu quả với vòng đời khoảng 5 năm, sau đó sẽ dần suy thoái. Do đó, việc nghiên cứu giống lúa mới để bảo toàn các tính năng vượt trội đã có và liên tục thích ứng với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, dịch bệnh… là hành trình không bao giờ ngưng nghỉ. Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long, do nhà nông học Lương Định Của khảo sát và đặt nền móng từ năm 1976, cũng chính là nơi mà các thế hệ nhà khoa học của ruộng đồng gắn bó với vòng đời của từng giống lúa.

Say sưa với chuyện về những mảnh ruộng có lịch sử gần 50 năm trồng thử nghiệm lúa, Tiến sĩ, Viện trưởng Viện Lúa Trần Ngọc Thạch khiến chúng tôi bị cuốn vào tình yêu và sự say mê bền bỉ dành cho cây lúa nơi đây. Viện Lúa là nơi phải tạo ra giống liên tục có phẩm chất tương đương hoặc cao hơn và có khả năng kháng sâu bệnh tốt hơn để thay thế những giống lúa liên tục bị thoái hóa. Bên cạnh đó, Viện cũng tạo ra giống mới để đáp ứng nhu cầu rất đa dạng của thị trường trong nước và xuất khẩu. “Chúng tôi lấy phẩm chất gạo làm định hướng để nghiên cứu gồm: độ ngon của cơm, giá trị dinh dưỡng, cảm quan của người tiêu dùng với chi phí canh tác thấp, nhưng cho năng suất cao và thích ứng với biến đổi khí hậu”, Tiến sĩ Thạch chia sẻ.

Dẫn chúng tôi ra thăm cánh đồng rộng 30 ha chuyên trồng lúa, ông chỉ vào từng khoảnh ruộng có những ký hiệu biển báo chi tiết và giải thích: “Chỗ này là nơi gần 50 năm không bón phân, chỗ kia chỉ bón mỗi đạm, hoặc có chỗ chỉ bón lân hoặc kali… để kiểm nghiệm xem chất đất biến đổi thoái hóa đi như thế nào. Mỗi giống lúa được trồng đồng nhất trên một khoảnh ruộng, từ đó giúp hiểu rõ hơn về tác động của các yếu tố như phân bón, điều kiện môi trường… đến sinh trưởng của lúa. Mô hình canh tác bền vững cũng được khởi lên từ đây”.

Rời Viện Lúa - “bảo tàng lịch sử” về hành trình cây lúa trong nửa thế kỷ qua, tôi chợt nhớ đến chia sẻ của kỹ sư Hồ Quang Cua: “Từ chỗ bước ra khỏi nạn đói, cải tiến giống lúa và canh tác để cứu đói, trong nửa thời gian sau của tám thập niên kể từ ngày Độc lập, Việt Nam đã xuất khẩu gạo đủ nuôi sống hàng tỷ người trên thế giới. Để có bước tiến thần tốc như vậy, hàng nghìn nhà khoa học Việt Nam, khởi đầu là nhà Bác học Lương Định Của, đã dày công nghiên cứu trong những điều kiện vô cùng khó khăn, thiếu thốn”.

Và chắc chắn hành trình đó sẽ còn được đội ngũ các nhà khoa học nông nghiệp tiếp bước, thẳng hướng tới tương lai…