Go Global – câu chuyện không thể một mình doanh nghiệp tự lực

Go Global – câu chuyện không thể một mình doanh nghiệp tự lực

Toàn cầu hóa (Go Global) là xu hướng tất yếu nhưng để doanh nghiệp Việt vươn ra thế giới không thể chỉ dựa vào nội lực.

Với những nghị quyết mang tính đột phá về đổi mới công nghệ, với sự góp sức của các ban, bộ, ngành và đại sứ quán các nước, trên hành trình thực hiện sứ mệnh ngoại giao công nghệ, các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang có được các “bệ đỡ”. Tuy nhiên, để thực hiện chiến lược hợp tác quốc tế về công nghệ, chúng ta còn nhiều việc cần phải làm.

Doanh nghiệp cần thêm các “bệ đỡ”

Để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, khoa học và công nghệ được Đảng, Nhà nước xác định là “chìa khóa” quan trọng, theo ông Nguyễn Văn Khoa, Tổng Giám đốc FPT, với 4 nghị quyết đột phá – “tứ trụ” vừa được Bộ Chính trị ban hành và Quyết định 1131/QĐ-TTg, doanh nghiệp công nghệ đã có đủ đòn bẩy để tăng tốc. Đây cũng là bước tiến lớn trong tư duy phát triển.

Tuy nhiên, chính sách muốn trở thành động lực, thì phải chống "rải đinh" – tức là không được tạo thêm rào cản, thủ tục, hay quy định gây cản trở cho đổi mới và sáng tạo. Các nghị quyết đã đầy đủ, rõ ràng và mang tính đột phá. Giờ là lúc cần một sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt và nhanh chóng của cả hệ thống chính trị để hiện thực hóa tinh thần của các nghị quyết thành hành động cụ thể.

Do đó, ông Khoa cho rằng, Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích mạnh mẽ cho hoạt động R&D, cũng như các mô hình hợp tác công-tư trong những lĩnh vực công nghệ cao như AI, bán dẫn, an ninh mạng. Đây là nền tảng để doanh nghiệp Việt có thể cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường quốc tế.

Thứ hai, nên xây dựng một chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, không chỉ xuất khẩu dịch vụ mà còn phát triển sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, mang thương hiệu Việt Nam.

nguyen-van-khoa-2.jpg
Ông Nguyễn Văn Khoa, Tổng Giám đốc Tập đoàn FPT.

Thứ ba, cần có cơ chế “một cửa” để kết nối giữa ngoại giao Nhà nước và ngoại giao doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong tham gia các chương trình hợp tác quốc tế, đồng thời đẩy nhanh quá trình tiếp nhận, ứng dụng công nghệ mới từ bên ngoài.

Ngoài ra, cũng rất cần những chính sách cụ thể hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Vai trò của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cũng rất quan trọng, họ chính là “rada quét sóng” tìm kiếm cơ hội hợp tác và kết nối cho doanh nghiệp Việt.

“Chúng ta nên chủ động tổ chức nhiều hơn các hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam, để thu hút các nhà khoa học, chuyên gia công nghệ đến làm việc, hợp tác. Bởi chỉ khi thế giới biết nhiều hơn đến Việt Nam, thì doanh nghiệp Việt mới có thêm cơ hội bước ra và khẳng định mình”, ông Khoa nói.

Còn đối với Đại sứ Phạm Quang Hiệu, để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa hợp tác công nghệ với Nhật Bản, Việt Nam cần quan tâm tới các chính sách như thúc đẩy nhiều hơn nữa cơ chế hợp tác đồng nghiên cứu giữa các viện trường và doanh nghiệp hai nước trong nhiều lĩnh vực trọng tâm và chiến lược của hai nước.

Trong đó cơ chế hợp tác thông qua Quỹ nghiên cứu đã được các nước trên thế giới triển khai hiệu quả và thành chuẩn mực quốc tế. Việt Nam cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cơ chế hợp tác và tăng kinh phí cho các Quỹ khoa học Việt Nam để hợp tác với Nhật Bản (như về số lượng dự án, quy mô, cách thức giải ngân kinh phí).

Bên cạnh đó, cần rà soát các hợp tác song phương giữa viện-trường-doanh nghiệp đã ký kết với Nhật Bản, lựa chọn các cặp đối tác ưu tiên, trọng tâm để thúc đẩy phát triển thành đối tác chiến lược, đầu tư kinh phí đủ lớn và trung hạn-dài hạn để các cặp đối tác chiến lược có thể triển khai hoạt động (ra tấm ra món) có quy mô và mục tiêu dài hạn hơn, không chỉ dừng ở một hai dự án nhỏ, hoặc đào tạo một vài nhân lực trong thời gian ngắn.

Ðây cũng là một trong những giải pháp cần quan tâm triển khai để nâng tầm quốc tế, châu Á của các viện, trường của Việt Nam. Trong thời đại công nghệ thay đổi nhanh chóng, việc các thể chế và cơ chế sẵn có luôn có nguy cơ trở nên lỗi thời, không điều chỉnh, đáp ứng được yêu cầu phát triển công nghệ.

Cơ chế thử nghiệm sanbox đã được các nước phát triển, trong đó có Nhật Bản triển khai để các doanh nghiệp có thể thử nghiệm công nghệ mới. Việt Nam cũng đã có chủ trương xây dựng và triển khai cơ chế sandbox, cần nhanh chóng hoàn thiện và tham khảo kinh nghiệm của Nhật Bản, để có thể đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp hai nước trong việc thử nghiệm công nghệ mới tại Việt Nam và thậm chí doanh nghiệp Việt Nam có thể thử nghiệm công nghệ mới tại Nhật Bản theo chính sách thu hút phát triển công nghệ từ nước ngoài của Nhật Bản.

“Các chính sách cơ chế khác cần có như cơ chế hợp tác công-tư trong các dự án nghiên cứu và phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ chiến lược có sự điều phối, hỗ trợ của Nhà nước song song với việc hoàn thiện các chính sách về sở hữu trí tuệ, bảo đảm bản quyền, an ninh công nghệ khi hợp tác với Nhật Bản và các nước phát triển”, Đại sứ Phạm Quang Hiệu chia sẻ.

02-trien-khai-hai-nha-may-ai-tai-vietnam-va-nhat-ban.jpg
Triển khai 2 nhà máy AI tại Việt Nam và Nhật Bản.

Theo ông Nguyễn Văn Khoa, Tổng Giám đốc FPT, qua nhiều chuyến công tác, ông càng thấy rõ vai trò quan trọng của Bộ Ngoại giao, đặc biệt là Vụ Ngoại giao kinh tế, trong việc đồng hành cùng doanh nghiệp. Không chỉ kết nối, xúc tiến các cuộc gặp gỡ, kết nối doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp các nước mà còn tham gia sâu vào thiết kế chương trình, nội dung các cuộc gặp gỡ cũng như theo dõi sát sao việc hiện thực hóa nội dung của các cuộc trao đổi.

“Chúng tôi luôn mong muốn Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục tăng cường hơn nữa vai trò đồng hành cùng doanh nghiệp. Thậm chí, chúng tôi cũng từng đề xuất với Bộ Ngoại giao phương án giao nhiệm vụ thúc đẩy phát triển ngoại giao kinh tế cho các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài.

Không chỉ có Bộ Ngoại giao, mà các bộ, ngành khác như Bộ Tài chính (Bộ Kế hoạch và đầu tư trước đây) cũng hỗ trợ tháo gỡ vướng mắc thủ tục đầu tư ra nước ngoài bảo đảm doanh nghiệp tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về quản lý dòng vốn, kiểm soát và phòng chống những rủi ro pháp lý liên quan. Nhờ vậy, doanh nghiệp Việt Nam không chỉ tự tin mở rộng hoạt động, mà còn có được sự bảo đảm từ phía Nhà nước, tạo nền tảng vững chắc cho hành trình hội nhập toàn cầu”, ông Khoa nói.

Công nghệ không chỉ là phương tiện mà là nền tảng giúp Việt Nam đi nhanh hơn, xa hơn

Hợp tác quốc tế về khoa học-công nghệ ngày càng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực, gồm: Khoa học tự nhiên (nâng cao trình độ khoa học, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững), khoa học xã hội-nhân văn (cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước), khoa học-công nghệ (nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh, phục vụ mục đích công cộng).

Nếu như trước đây, các hoạt động hợp tác nghiên cứu dựa trên những lĩnh vực thế mạnh truyền thống của từng nước thì nay trong bối cảnh hợp tác, cạnh tranh phát triển khoa học, công nghệ trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội cao.

Hiện nay, thế giới có khoảng 10 quốc gia có năng lực nổi bật, với thế mạnh, vai trò dẫn dắt trong các lĩnh vực khác nhau: Hoa Kỳ (AI, công nghệ vũ trụ, sinh học, đám mây/lượng tử, an ninh mạng, bán dẫn); Trung Quốc (AI, 5G/6G, pin năng lượng sạch, đất hiếm, vũ trụ, bán dẫn); Nhật Bản (5G/6G, robot, vật liệu tiên tiến, thiết bị và hóa chất sản xuất bán dẫn, vũ trụ); Hàn Quốc (5G/6G, chip nhớ bán dẫn, robot, pin năng lượng, AI); Đức (robot/tự động hóa, vật liệu & pin, hạ tầng đám mây, hàng không-vũ trụ); Anh (AI, an ninh mạng, công nghệ sinh học); Pháp (hàng không-vũ trụ, hạt nhân, an ninh); Singapore (AI ứng dụng, trung tâm dữ liệu, đám mây, an ninh mạng, công nghệ tài chính); Israel (AI, an ninh mạng, y sinh); Canada (lượng tử, AI học sâu, vật liệu, công nghệ sinh học).

tap-doan-fpt-mang-den-ai-summit-conference-2024-voi-loat-giai-phap-ai-tien-tien-va-cong-nghe-ban-dan-dot-pha.jpg
Tập đoàn FPT mang đến AI Summit & Conference 2024 với loạt giải pháp AI tiên tiến và công nghệ bán dẫn đột phá.

Ngày 12/6/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Quyết định số 1131/QĐ-TTg ban hành danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược. Theo Quyết định số 1131/QĐ-TTg, Việt Nam có 11 nhóm công nghệ chiến lược và 35 nhóm sản phẩm công nghệ chiến lược. Việt Nam sẽ cần tập trung phát triển theo chiều sâu để tránh phân tán các nguồn lực, bám sát 11 nhóm công nghệ và 35 nhóm sản phẩm công nghệ chiến lược.

Bộ Khoa học và Công nghệ hiện đang phối hợp với Bộ Ngoại giao xác định rõ danh sách một số quốc gia có thế mạnh đi đầu đối với các lĩnh vực công nghệ này.

Theo ông Hoàng Hữu Hạnh, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ Khoa học và Công nghệ, trong 11 nhóm công nghệ chiến lược, bộ đặt ra hai mũi nhọn. Mũi nhọn thứ nhất là các công nghệ nền tảng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và kinh tế số, bao gồm trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây, dữ liệu lớn, mạng di động thế hệ sau (5G/6G), và an ninh mạng. Mũi nhọn thứ hai mà Bộ đang tập trung nghiên cứu là các lĩnh vực mà Việt Nam có tiềm năng, lợi thế cạnh tranh hoặc có ý nghĩa an ninh-kinh tế sống còn, như công nghệ chip bán dẫn, công nghệ y-sinh học tiên tiến, công nghệ năng lượng và vật liệu mới, cùng với công nghệ khai thác các tài nguyên chiến lược như đất hiếm và đại dương.

Ông Khoa cũng tin tưởng, ngoại giao công nghệ trong 5–10 năm tới sẽ có tác động trực tiếp đến vị thế quốc gia. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ đây phải là một mũi nhọn, một sứ mệnh quốc gia. Nghĩa là chúng ta phải đầu tư, phải có ngân sách, phải gắn KPI để đo lường hiệu quả. Công nghệ không chỉ là phương tiện mà là nền tảng giúp Việt Nam đi nhanh hơn, xa hơn.

“Ngày đầu tiên FPT bước ra thế giới, chúng tôi đã chọn phần mềm để khẳng định năng lực Việt Nam và hôm nay chúng tôi tiếp tục mở rộng sang chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, AI, bán dẫn, công nghệ ô-tô số. Đó cũng chính là con đường để thúc đẩy kinh tế, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân.

Tương lai của châu Á, Đông Nam Á và Việt Nam chính là AI và dữ liệu. Muốn tham gia, chúng ta cần nguồn nhân lực trẻ mà đây chính là lợi thế của Việt Nam. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách đi theo hướng này.

Năm 2045, khi đất nước tròn 100 năm, thế hệ sinh ra hôm nay sẽ bước vào thị trường lao động. Con đường cho họ phải được thiết kế từ bây giờ. Đó là tầm nhìn mà Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra rất đúng thời điểm và chúng ta phải dồn lực để thế hệ ấy trở thành lực lượng lao động công nghệ chất lượng cao cho toàn cầu.

Ngắn hạn, Viettel, FPT và một số doanh nghiệp đang góp sức để hiện thực hóa tầm nhìn này”, ông Khoa chia sẻ.

Đặt niềm tin vào tinh thần đổi mới, sáng tạo của người trẻ

Theo ông Hoàng Hữu Hạnh, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ Khoa học và Công nghệ, để thực hiện hiệu quả công tác ngoại giao công nghệ trong thời gian tới, Việt Nam cần xây dựng các tiêu chí đánh giá, lựa chọn nhân sự cụ thể và kế hoạch đào tạo, tập huấn rõ ràng để xây dựng đội ngũ nguồn lực nhân sự ngoại giao công nghệ chuyên nghiệp, có tính liên ngành, có năng lực và hiểu biết kỹ công nghệ và nắm rõ chiến lược phát triển công nghệ của quốc gia, khả năng thương thuyết và đàm phán.

Vì thế, về nhân sự cốt lõi, đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, cần phải nâng cao năng lực cán bộ hiểu biết về công nghệ chiến lược (AI, bán dẫn….), có kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu và triển khai xúc tiến R&D, thu hút trung tâm công nghệ; có đội ngũ chuyên gia về xây dựng chính sách và pháp chế am hiểu luật sở hữu trí tuệ, kiểm soát xuất khẩu-nhập khẩu, thẩm định và giám định công nghệ.

Các nhà khoa học được đào tạo tại nước ngoài, có kinh nghiệm kết nối hợp tác giữa viện/trường và đối tác nước ngoài để triển khai dự án nghiên cứu chung. Cán bộ hợp tác quốc tế tốt ngoại ngữ, có kinh nghiệm quản lý dự án hợp tác công nghệ hoặc nghiên cứu chung với nước ngoài

Năng lực trọng tâm cần phát triển chính là kiến thức và hiểu biết về các lĩnh vực công nghệ ưu tiên (AI, công nghệ sinh học, robot); kỹ năng đàm phán thương mại-công nghệ; đánh giá rủi ro công nghệ và an ninh; kỹ năng ngoại giao xây dựng và kết nối mạng lưới, vận động chính sách, quản lý dự án quốc tế; ngôn ngữ chuyên ngành (Anh + ngôn ngữ đối tác trọng điểm), hiểu biết văn hoá kinh doanh.

fpt-lan-dau-lot-top-40-doanh-nghiep-dich-vu-cntt-chau-a.jpg
Cần có sự kết nối doanh nghiệp, viện nghiên cứu và chuyên gia công nghệ giữa Việt Nam với các quốc gia khác.

Để có nguồn nhân lực chất lượng cao, cần kết hợp tuyển từ ngoại giao truyền thống và tuyển đặc thù từ các đơn vị của Bộ Khoa học và Công nghệ, các trường đại học/viện nghiên cứu. Bên cạnh đó, cần có những chương trình đào tạo cấp tốc về kỹ thuật cơ bản, sở hữu trí tuệ, thương thảo quốc tế, thẩm định, giám định công nghệ, an ninh công nghệ cho đội ngũ cán bộ. Để thu hút nhân tài khoa học, công nghệ, cần có chính sách khuyến khích bao gồm mức đãi ngộ cạnh tranh, phụ cấp công tác nước ngoài.

“Bộ Khoa học và Công nghệ hiện đang có 23 Văn phòng đại diện Khoa học và Công nghệ của Bộ tại 19 quốc gia, Văn phòng đại diện Khoa học và Công nghệ chính là cánh tay nối dài của Bộ Khoa học và Công nghệ, là cầu nối chiến lược giữa hệ thống nghiên cứu, đổi mới của Việt Nam và hệ sinh thái công nghệ toàn cầu.

Các Văn phòng đại diện Khoa học và Công nghệ vừa làm nhiệm vụ ngoại giao kỹ thuật, vừa khảo sát và thăm dò thị trường, tìm kiếm và hỗ trợ chuyển giao công nghệ và thu hút nguồn lực, góp phần trực tiếp nâng cao năng lực nội sinh và vị thế quốc gia.

Ngoài việc đào tạo nguồn nhân lực trong nước, các doanh nghiệp cho rằng, Việt Nam cần đẩy mạnh việc thu hút sự quan tâm và đóng góp của đội ngũ trí thức, kiều bào người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là những người đang hoạt động trong lĩnh vực khoa học-công nghệ, nhằm tăng cường kết nối tri thức, chuyển giao công nghệ và thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành công nghệ trong nước.

Về vấn đề này, ông Hoàng Anh Tuấn, Tổng Lãnh sự Việt Nam tại San Francisco cho hay, với lợi thế lớn của khu vực Bờ Tây là cộng đồng người Việt có nhiều chuyên gia, kỹ sư, nhà khoa học làm việc trong các tập đoàn công nghệ hàng đầu, Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Mỹ cũng đã triển khai nhiều chương trình huy động trí thức kiều bào thông qua các sự kiện như “Ngày hội đổi mới sáng tạo Việt-Mỹ”, “Diễn đàn Trí thức Việt toàn cầu”, và các chương trình hợp tác đại học-doanh nghiệp.

Những hoạt động này không chỉ tạo điều kiện để chuyển giao công nghệ và cố vấn chuyên môn cho doanh nghiệp Việt mà còn thúc đẩy các dự án khởi nghiệp, R&D trong lĩnh vực AI, dữ liệu lớn và sản xuất chip bán dẫn tại Việt Nam. Đây là yếu tố quan trọng trong việc hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo bền vững theo đúng định hướng của Nghị quyết 57.

Tại Nhật Bản, Đại sứ Phạm Quang Hiệu cho hay, kết nối doanh nghiệp, viện nghiên cứu và chuyên gia công nghệ hai nước là trọng tâm hàng đầu trong công tác của Ðại sứ quán, để triển khai công tác ngoại giao công nghệ và thúc đẩy hợp tác thực chất thông qua các dự án đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu chung, phát triển công nghệ và chuyển giao công nghệ.

dai-su.jpg
Đại sứ Phạm Quang Hiệu trong buổi gặp mặt doanh nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam tại Nhật Bản.

Trong thời gian qua, Ðại sứ quán trú trọng kết nối, thúc đẩy ký kết các thỏa thuận hợp tác khung cấp Chính phủ, các bộ hai nước trong nghiên cứu và đào tạo, đặc biệt là trong các lĩnh vực trọng tâm Việt Nam đang đẩy mạnh hợp tác với Nhật Bản.

Trong tháng 5/2025, Ðại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản đã tổ chức Hội nghị dưới sự chủ trì của Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng để triển khai Nghị quyết 57. Đây là một trong những hội nghị được triển khai đầu tiên ở nước ngoài, với sự tham gia đông đảo của các nhà khoa học Việt Nam tại Nhật Bản.

Ðể thúc đẩy mối hợp tác giữa các chủ thể, Ðại sứ quán đang phối hợp với công ty FPT, Hiệp hội Doanh nghiệp chuyển đổi số và các tổ chức trong nước xây dựng “Nền tảng kết nối” giữa các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài để phát huy trí tuệ và tâm huyết của các nhà khoa học đối với phát triển khoa học công nghệ của đất nước, đồng thời qua đó thu hút sự tham gia của các trường, viện và doanh nghiệp Nhật Bản vào triển khai các hoạt động hợp tác khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Theo Chủ tịch FPT Trương Gia Bình, nếu xét một quốc gia nào là đối tác công nghệ cùng tạo dựng tương lai thì chúng ta phải bàn rất kỹ về mục tiêu của hai quốc gia, của hệ thống giáo dục, các doanh nghiệp và của cả cộng đồng nhân dân.

Theo đó, đã làm ngoại giao công nghệ, thì chúng ta phải đi học tiếng bản địa. Hai quốc gia phải đóng vai trò như người “mai mối” để các doanh nghiệp 2 nước kết nối được với nhau. Và một điều rất quan trọng, chúng ta phải chú trọng đào tạo nguồn nhân lực.

“Tôi thí dụ, ngành bán dẫn thiếu hàng triệu lao động nhưng mà không ai thích đi làm ngành bán dẫn vì kén người. Nhưng ngành này lại “chọn” người Việt chúng ta chính vì sự nhiệt tình, cần cù, gắn bó lâu dài và có sự đam mê về chuyên môn. Người Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) cũng đã từng như vậy, nhưng khi thu nhập người ta lên cao thì người ta không còn có đam mê, khát vọng mạnh mẽ như vậy nữa”, ông Bình nói.

toan-canh-le-cong-bo-dat-1-ty-usd-doanh-thu-dich-vu-cntt-cho-thi-truong-nuoc-ngoai-cua-fpt-02.jpg
Toàn cảnh Lễ Công bố đạt 1 tỷ USD doanh thu Dịch vụ công nghệ thông tin cho thị trường nước ngoài của FPT.

Vì thế, Chủ tịch FPT nhấn mạnh đến việc phân tích thị trường lao động ở một số quốc gia để có chiến lược đào tạo phù hợp, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao ở quy mô lớn cho thị trường công nghệ thế giới.

“Chúng ta làm công nghệ không giới hạn trong nước mà chúng ta sẽ làm công nghệ trên toàn cầu. Nhưng để làm được, vai trò doanh nghiệp rất quan trọng. Sự đồng lòng của những nhóm doanh nghiệp dẫn dắt của hai quốc gia rất quan trọng. Sự đồng lòng này cũng cần sự hậu thuẫn của hai quốc gia, tức là cần có công-tư kiến tạo.

Bây giờ chúng ta công-tư kiến tạo cho Việt Nam nhưng mà chúng ta cũng phải công-tư kiến tạo cho các hợp tác quốc tế giữa các quốc gia để bảo đảm là các nước ấy có nguồn nhân lực để tiếp tục vươn lên khi mà họ đã gặp dân số già. Công thức này cũng phù hợp với Việt Nam khi chúng ta đang có tốc độ già hóa dân số nhanh. Khi 2 nước cùng nhau lên kế hoạch như vậy cho tương lai, ngoại giao công nghệ sẽ rất khác và vai trò của Nhà nước, vai trò của doanh nghiệp cũng sẽ thay đổi”, ông Bình nói.

Xem thêm