Các thành viên trong tổ cộng đồng nhận khoán bảo vệ rừng quốc gia Bù Gia Mập tuần tra bảo vệ rừng.
Các thành viên trong tổ cộng đồng nhận khoán bảo vệ rừng quốc gia Bù Gia Mập tuần tra bảo vệ rừng.

Giữ “lá phổi xanh” cho vùng Đông Nam Bộ

Công tác bảo vệ rừng tại Vườn quốc gia Bù Gia Mập được triển khai một cách toàn diện và đồng bộ, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng như kiểm lâm, bộ đội biên phòng, tổ nhận khoán cộng đồng và chính quyền địa phương.

Việc ứng dụng công nghệ hiện đại, như: camera giám sát, hệ thống định vị GPS và phần mềm quản lý rừng đã nâng cao hiệu quả công tác tuần tra, kiểm tra. Nhờ đó, Vườn quốc gia Bù Gia Mập trở thành một điểm sáng trong công tác bảo vệ rừng, góp phần quan trọng vào việc gìn giữ "lá phổi xanh" của tỉnh Bình Phước và cả khu vực Đông Nam Bộ.

Vườn quốc gia Bù Gia Mập hiện đang quản lý hơn 25.500 ha rừng và đất lâm nghiệp. Với phương châm "bảo vệ tận gốc", nhiều năm qua, đơn vị đã triển khai đồng bộ các biện pháp kỹ thuật, đồng thời đẩy mạnh công tác tuần tra, canh gác, ngăn chặn các hành vi xâm hại tài nguyên rừng và phòng chống cháy rừng, góp phần bảo vệ nguyên vẹn hệ sinh thái rừng đặc dụng.

Bên cạnh lực lượng chuyên trách, vườn còn phối hợp với 11 cộng đồng nhận khoán rừng, gồm khoảng 600 hộ dân sinh sống tại ba xã vùng đệm: Bù Gia Mập, Đắk Ơ (huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước) và Quảng Trực (huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông).

Việc giao khoán bảo vệ rừng cho các tổ cộng đồng được xem là một giải pháp hiệu quả và bền vững. Những người nhận khoán thường là đồng bào dân tộc thiểu số sống gần rừng, hiểu rừng và gắn bó với rừng như máu thịt. Do đó, họ nắm rất kỹ những người dân trong vùng thường ra vào rừng nên chủ động trong việc tuần tra, kiểm soát, kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi xâm hại rừng như chặt phá, lấn chiếm đất rừng, săn bắt động vật hoang dã.

Không chỉ góp phần bảo vệ rừng, nguồn kinh phí từ công bảo vệ rừng là sinh kế ổn định cho người dân. Thông qua tiền công nhận khoán, các gia đình có thêm thu nhập, giảm bớt gánh nặng kinh tế, từ đó hạn chế tình trạng xâm hại rừng để mưu sinh. Nhiều nơi đã hình thành các mô hình kinh tế lâm nghiệp bền vững gắn với nhận khoán như: trồng cây dược liệu dưới tán rừng, nuôi ong lấy mật, du lịch sinh thái cộng đồng.

Trước đây, gia đình anh Điểu Ganh, thôn Bù Dốt, xã Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập nằm trong diện hộ nghèo của xã, vườn rẫy ít lại có ba đứa con tuổi ăn học. Trước cuộc sống quá khó khăn, anh Điểu Ganh nhờ lãnh đạo thôn xin vào cộng đồng nhận khoán bảo vệ Vườn quốc gia Bù Gia Mập để có thêm nguồn thu nhập.

Anh Điểu Ganh cho biết: “Trước đây nhà tôi nghèo lắm, nhà có mỗi hơn một mẫu điều nhưng có năm miệng ăn. Năm nào điều sai trái, bán được giá cao thì đỡ, còn năm mất mùa là đói khổ. Từ khi tham gia tổ cộng đồng, nhận khoán bảo vệ rừng thôn Bù Dốt, gia đình tôi đã thoát nghèo".

Giờ đây niềm vui của người nhận khoán giữ rừng không chỉ đến từ việc hoàn thành nhiệm vụ mà còn từ sự bình yên của cánh rừng mỗi ngày. Mỗi lần tuần tra về không phát hiện dấu vết chặt phá, mỗi tiếng chim hót, dấu chân thú rừng hay mầm cây non nhú lên giữa rừng sâu đều mang đến niềm hạnh phúc giản dị.

Dù vất vả, gian nan, nhưng những cánh rừng xanh tốt đang đem lại cuộc sống ấm no hơn và cũng là nguồn động lực lớn lao để người dân tiếp tục gắn bó, gìn giữ từng tấc rừng xanh.

Vườn quốc gia Bù Gia Mập đã tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học, xem đây là một trong những giải pháp trọng tâm và hiệu quả nhằm tăng cường giám sát, phát hiện sớm nguy cơ, cũng như hỗ trợ ra quyết định kịp thời trong giai đoạn hiện nay.

Theo ông Vương Đức Hòa, Giám đốc Vườn quốc gia, đơn vị đã triển khai hệ thống giám sát rừng bằng ảnh viễn thám kết hợp GPS và phần mềm chuyên dụng để theo dõi diễn biến tài nguyên rừng và kiểm soát hoạt động tuần tra của lực lượng kiểm lâm. Các tổ tuần tra được trang bị thiết bị di động cài đặt phần mềm để ghi nhận dữ liệu thực địa như: tọa độ, hình ảnh, loại vi phạm..., từ đó tổng hợp, phân tích và xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ. Đồng thời, công nghệ số cũng hỗ trợ hiệu quả trong việc lập hồ sơ lưu trữ đa dạng sinh học, theo dõi các quần thể động-thực vật quý hiếm và kiểm kê rừng với độ chính xác cao. Việc cập nhật dữ liệu liên tục đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, bảo tồn rừng một cách hiện đại, minh bạch, qua đó giữ gìn hệ sinh thái rừng đặc dụng và giá trị đa dạng sinh học đặc sắc của khu vực Đông Nam Bộ.

Gắn bó với rừng suốt hơn 20 năm, anh Kiều Đình Tháp, Trưởng phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế của Vườn quốc gia Bù Gia Mập, không chỉ là một nhà nghiên cứu tận tụy trong lĩnh vực bảo tồn đa dạng sinh học mà còn là người say mê nhiếp ảnh thiên nhiên.

Trên hành trình theo dấu các loài động vật quý hiếm, anh kiên nhẫn ghi lại những khoảnh khắc sống động của hệ sinh thái rừng. Anh chia sẻ, nhờ làm tốt công tác bảo vệ rừng, nhiều khu vực đã duy trì và phục hồi được sự phong phú về đa dạng sinh học.

Hệ động, thực vật phát triển ổn định, nhiều loài quý hiếm như: voọc, gấu, chim trĩ, lan rừng… dần quay trở lại. Thảm thực vật đa dạng đã tạo nên môi trường sống lý tưởng cho các loài sinh vật tồn tại và phát triển.

Song song với công tác bảo vệ rừng, Vườn quốc gia Bù Gia Mập đã thành lập Trung tâm cứu hộ động vật nhằm bảo tồn đa dạng sinh học. Hiện trung tâm đang chăm sóc và tái thả các loài động vật quý hiếm bị buôn bán trái phép, bị thương hoặc mất môi trường sống và hồi sinh sự sống cho hàng nghìn cá thể động vật hoang dã quý hiếm, như: voọc, khỉ, cầy hương, tê tê, rùa hộp trán vàng miền trung-một trong những loài rùa có nguy cơ tuyệt chủng của thế giới.

Nhiều cá thể khi được đưa đến đây trong tình trạng sức khỏe yếu, thậm chí bị cụt chi, gãy xương do bị bẫy hoặc bị giam giữ trái phép. Các cán bộ phải thực hiện quá trình điều trị dài ngày, theo dõi sát sao và thực hiện chế độ ăn uống phù hợp để phục hồi sức khỏe cho chúng. Tính riêng trong sáu tháng đầu năm 2025, đơn vị đã tiếp nhận, cứu hộ 40 cá thể động vật hoang dã, tái thả 14 cá thể về tự nhiên.

Xem thêm