Hạ sĩ Lục quân Robert P.Chenoweth tham chiến tại Việt Nam từ tháng 1-1967. Tháng 2-1968, khi tham chiến tại Quảng Trị, máy bay trực thăng của ông bị trúng đạn. Máy bay nổ, ông và các binh lính trên máy bay đều bị bắt. Trong thời gian sống ở Nhà tù Hỏa Lò, thời đó có cái tên trong lính Mỹ là “Khách sạn Hilton – Hà Nội”, ông đã bắt đầu hiểu về cuộc chiến mà mình tham gia, tích cực phản đối chiến tranh thông qua những bản tường trình, những buổi làm việc với thành viên các nhóm hòa bình đến thăm trại giam.
Robert P.Chenoweth kể lại rằng, con đường sự nghiệp của ông bắt đầu từ thời làm khách của “khách sạn Hilton – Hà Nội”, nơi các cựu tù binh Mỹ được học đàn, học vẽ… và đọc lịch sử văn hóa Việt Nam qua các cuốn sách tiếng Anh do Việt Nam xuất bản trong thời chiến.
“Năm năm ở trại giam, chúng tôi được dịp đọc sách tiếng Anh về Việt Nam như "Việt Nam Today”, “Vietnamese studies” từ năm 1964 do các nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện và Hữu Ngọc phụ trách…, và được trao đổi với nhau trong nhóm nhỏ. Dần dần, tôi ham mê lịch sử văn hóa Việt Nam. Về Hỏa Lò khi có trận tập kích mùa Giáng sinh 1972, chúng tôi đã thành lập được một nhóm mang tên “Phong trào hòa bình”, được hình thành từ 10 người. Có lần chúng tôi muốn viết thư cho Quốc hội Mỹ, nói lên sự cần thiết phải đấu tranh đưa quân đội Mỹ về nước, nhưng ban phụ trách không đồng ý, vì e rằng phía Mỹ sẽ hiểu sai đi, cho rằng từ trong trại giam chúng tôi đã bị tẩy não”.
Hạ sĩ Lục quân Chenoweth đã không ngăn được sự xúc động khi kể lại chuyện xưa.
Robert P.Chenoweth kể lại: “Tôi đã sống ở nơi này cách đây 45 năm, đã trải qua cả trận "Điện Biên Phủ trên không" và ngày Hiệp định Paris được ký kết. Ngày 15-3-1973, tôi rời Việt Nam. Thời gian tôi ở Hỏa Lò rất ngắn, nhưng vào đúng những ngày đêm Mỹ ném bom B52 xuống Hà Nội. Tất cả mọi người đã rất lo sợ sẽ bị bom đánh trúng, và chúng tôi cũng mong rằng gia đình của những người quản giáo sẽ an toàn. Trong giai đoạn nguy hiểm đó, chính những người quản giáo đã hỏi tôi có muốn mang một chiếc ấm tích về nhà không. Tôi đã rất vui mừng khi được hỏi điều đó”.
Cho đến nay, ông Robert P.Chenoweth vẫn giữ chiếc ấm tích ở nhà, và ông mong rằng một ngày nào đó có thể đem chiếc ấm tích trở lại Việt Nam, bổ sung cho khu trưng bày của khu di tích Nhà tù Hỏa Lò một hiện vật giá trị. Khi biết sẽ được trở về nhà, người quản giáo có hỏi ông có thích gì không để tặng, khi đó ông đã xin một lá cờ của Việt Nam để nhớ đến quãng thời gian ở Hỏa Lò và ở Việt Nam, và bởi vì đối với ông, lá cờ đã trở thành một biểu tượng đặc biệt cho tất cả những gì ông học được trong quá trình bị giam giữ, và cũng giúp ông nhớ về cuộc đấu tranh trường kỳ bảo vệ độc lập ở Việt Nam.
Khi kể về câu chuyện này, Robert P.Chenoweth đã không ngăn được dòng nước mắt, và phải mất một lúc lâu mới trở lại được mạch truyện của mình. Nghẹn ngào trong những lời nói đứt quãng vì xúc động, ông cho biết, sau 45 năm trở lại chốn này, ông đã vô cùng xúc động bởi những cảm xúc trộn lẫn. Niềm vui vì gặp lại những người quản giáo năm xưa, những người đã giúp ông thay đổi suy nghĩ về cuộc chiến, cho ông hiểu thế nào là ý nghĩa của hòa bình và ý nghĩa của cuộc chiến đấu bảo vệ hòa bình, và sự nghẹn ngào khi nhớ lại những gì mình tận mắt chứng kiến về cuộc sống của người dân Hà Nội trong cảnh bom rơi.
Người Trại trưởng và tù binh năm xưa chia sẻ với nhau những hình ảnh cũ.
Ông Trần Trọng Duyệt, nguyên Trại trưởng tù binh Mỹ trong Hỏa Lò là một trong những người của trại giam năm xưa có mặt tại cuộc triển lãm. Gặp lại Robert P.Chenoweth, hai ông tay bắt mặt mừng, đem từng tấm ảnh năm xưa ra xem, cùng kể lại những kỷ niệm ngày xưa.
Ông Duyệt kể: “Ngày xưa ông ấy chỉ cho tôi học tiếng Anh, hồi đó ông ấy đẹp lắm, cao, đeo kính”.
Ông Trần Trọng Duyệt cũng chính là người đã tặng quà và tặng lá cờ cho cựu tù Robert P.Chenoweth, bởi vì “ông ấy rất có thiện cảm với Việt Nam, và nhận ra chính nghĩa từ lá cờ đỏ sao vàng của Việt Nam”.
Người Trại trưởng năm xưa nhớ lại: “Hồi đó nhiệm vụ của chúng tôi là phải giữ sức khỏe và an toàn cho các tù binh, để đặt danh sách 500 tù binh lên bàn đàm phán. Ngày xưa chế độ ăn của họ cao hơn cả đại tá của chúng ta. Thời gian đó tôi quản lý cả các ông John McCain và ông Peter Peterson. Thời chiến, họ ném bom giết dân lành, nhưng thời bình, họ trở thành bạn bè với chúng ta và những người có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Ông John McCain vào thứ bảy, chủ nhật thường hay dạy tiếng Anh cho tôi, và những lúc rảnh rỗi, chúng tôi hay ngồi tán phét với nhau như hai người đàn ông ngoài đời, thậm chí hỏi nhau chuyện tán gái. Ông ấy thường hỏi tôi nghĩ như thế nào về phụ nữ Mỹ, tôi bảo, thường thì phụ nữ ở nơi nào cũng giống nhau là thích được chiều chuộng, nũng nịu, hay ghen bóng gió và mau nước mắt, nói xong cả hai cười xòa”.
Những người quản giáo năm xưa, và cựu tù phi công, gặp lại sau 45 năm, đã hoàn toàn nhìn nhận nhau theo cách khác. Giữa họ là những cái bắt tay, những cái ôm thật chặt, những lời hỏi thăm thân tình. Giữa họ, dù trước hay sau 45 năm, dù từng ở hai chiến tuyến, nhưng dường như chưa bao giờ có khoảng cách.