Phát biểu tại Tọa đàm, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thành Hiếu, Phó Giám đốc Đại học Kinh tế quốc dân nhấn mạnh, sau gần 40 năm Đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất, từng bước khẳng định vai trò trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đến năm 2024, khu vực kinh tế tư nhân chiếm 53,4% tổng vốn đầu tư xã hội, 82,07% tổng lao động trong nền kinh tế, đóng góp 38,6% tổng lợi nhuận trước thuế và 51% tổng thu nhập tạo ra cho người lao động trong khu vực doanh nghiệp.
Khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp 43% tổng GDP, chiếm 57% vào mức tăng trưởng GDP năm 2024, là mức đóng góp lớn nhất trong các thành phần kinh tế. Bình quân giai đoạn 2011–2024, khu vực này đạt tốc độ tăng trưởng 6,3%/năm, cao hơn mức bình quân chung toàn nền kinh tế (5,48%/năm).
“Những con số này khẳng định vững chắc vai trò trung tâm và tiềm năng to lớn của khu vực kinh tế tư nhân, đồng thời đặt nền tảng cho việc nâng tầm vị trí của khu vực này thành động lực chính trong thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững của Việt Nam”, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thành Hiếu nói.
Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đặt ra các mục tiêu cụ thể đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Cụ thể, đến năm 2030 phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế (tương đương 20 doanh nghiệp/1.000 dân); đóng góp khoảng 55-58% GDP và 35-40% tổng thu ngân sách nhà nước; tạo việc làm cho 84-85% lực lượng lao động; năng suất lao động tăng bình quân 8,5-9,5%/năm; có ít nhất 20 doanh nghiệp tư nhân lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Đến năm 2045, có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, đóng góp khoảng 60% GDP và trở thành lực lượng có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và toàn cầu.
Tuy nhiên, so với kỳ vọng trở thành trụ cột phát triển kinh tế quốc gia, khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều bất cập. Hiện nay, đây là khu vực có hiệu quả kinh doanh, trình độ khoa học công nghệ, năng suất lao động và thu nhập người lao động thấp nhất trong các thành phần kinh tế. Đồng thời, khu vực này đang có dấu hiệu “hụt hơi” trong quá trình phát triển.
Nguyên nhân của những hạn chế nói trên bắt nguồn từ nhiều nút thắt như: Nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của kinh tế tư nhân; thể chế và chính sách còn thiếu công bằng và bao trùm; chưa có mô hình liên kết hiệu quả giữa các bộ phận cấu thành trong khu vực tư nhân; năng lực nội tại và khả năng tiếp thu nguồn lực phát triển còn yếu; những hạn chế về chất lượng đội ngũ doanh nhân.
Những tồn tại này cần được nhận diện rõ và tháo gỡ kịp thời bằng các giải pháp đột phá để tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển thực chất, vững mạnh và đóng góp xứng đáng vào quá trình phục hồi, tăng trưởng kinh tế của đất nước trong giai đoạn mới.
Theo Giáo sư Trần Thọ Đạt, Đại học Kinh tế quốc dân, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vai trò và hiện nay được xác định là một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy tăng trưởng, đổi mới sáng tạo và tạo việc làm trong nền kinh tế.
Bên cạnh bộ phận kinh tế tư nhân chính thức bao gồm các doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo luật định, vẫn tồn tại khu vực kinh tế phi chính thức, đóng góp khoảng 20-25% GDP nhưng chưa được đánh giá đúng mức trong hệ thống hoạch định chính sách kinh tế-xã hội quốc gia.
Trong bối cảnh mới của nền kinh tế số, quá trình chính thức hóa, chuyển đổi lao động và chiến lược phát triển bao trùm đòi hỏi cần có cái nhìn toàn diện hơn về khu vực kinh tế phi chính thức, nhận diện đúng vai trò của khu vực này như một bộ phận tất yếu và có khả năng chuyển hóa, tích hợp vào nền kinh tế chính thức nếu có chính sách phù hợp.
Thông qua thảo luận, các đại biểu đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế nội tại, những điểm nghẽn làm kìm hãm quá trình phát triển và những xu hướng phát triển chậm lại của khu vực kinh tế tư nhân trong môi trường cạnh tranh với các khu vực kinh tế khác và trong môi trường quốc tế.
Từ đó, đề xuất những giải pháp đột phá phát triển kinh tế tư nhân nhằm vượt qua các rào cản, tháo gỡ các điểm nghẽn, hướng đến mục tiêu trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.