Bà Đinh Thị Hoa, Trưởng phòng Giảm nghèo và An sinh xã hội phát biểu tại tọa đàm.
Bà Đinh Thị Hoa, Trưởng phòng Giảm nghèo và An sinh xã hội phát biểu tại tọa đàm.

Giải bài toán bảo hiểm thiệt hại cây lúa tại đồng bằng sông Cửu Long

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, việc phát triển bảo hiểm thiệt hại cây lúa không chỉ là câu chuyện của ngành bảo hiểm, mà là yêu cầu chiến lược trong bảo vệ an ninh lương thực quốc gia và thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại đồng bằng sông Cửu Long.

Đồng bằng sông Cửu Long từ lâu được ví như “trái tim lúa gạo” của Việt Nam, đóng góp hơn 50% sản lượng lúa cả nước và hơn 90% lượng gạo xuất khẩu. Song, chính khu vực này lại đang trở thành tuyến đầu chịu tác động của biến đổi khí hậu khi hạn hán, xâm nhập mặn, bão lũ, sạt lở và dịch bệnh ngày càng khốc liệt. Với đặc trưng sản xuất phụ thuộc vào tự nhiên, người nông dân Đồng bằng sông Cửu Long vẫn đang phải “đánh cược” mỗi vụ mùa với những biến động khó lường.

Trong bối cảnh đó, bảo hiểm nông nghiệp, nhất là bảo hiểm thiệt hại cây lúa, được nhìn nhận như một “tấm lá chắn tài chính” giúp người trồng lúa đứng vững trước thiên tai và biến động thị trường.

Tuy nhiên, như nhiều đại biểu đánh giá tại Tọa đàm “Thách thức và giải pháp đối với bảo hiểm thiệt hại cây lúa tại đồng bằng sông Cửu Long” do Bảo hiểm Agribank phối hợp Cục Kinh tế hợp tác (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang, Agribank An Giang và Tổ chức GIZ phối hợp tổ chức, đã chỉ rõ: Con đường để bảo hiểm thực sự đi vào cuộc sống vẫn đầy rào cản.

Thực tiễn cho thấy, các chương trình bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng vẫn chưa đạt kỳ vọng. Thứ nhất, về khung pháp lý, Nghị định 58/2018/NĐ-CP vẫn còn bất cập: Danh mục cây trồng được hỗ trợ hẹp, thủ tục rườm rà, thiếu cơ chế khuyến khích cho mô hình sản xuất hàng hóa quy mô lớn; chính sách hiện vẫn nghiêng về hỗ trợ an sinh xã hội (hộ nghèo, cận nghèo), trong khi chưa thật sự trở thành công cụ quản lý rủi ro sản xuất chuyên nghiệp cho các hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp.

Thứ hai, rủi ro trục lợi và giám định thiệt hại là thách thức lớn; thiên tai, sâu bệnh diễn biến phức tạp, khó xác định nguyên nhân, mức độ thiệt hại, khiến doanh nghiệp bảo hiểm e dè mở rộng phạm vi bảo hiểm.

Thứ ba, hạ tầng dữ liệu còn yếu; thiếu cơ sở dữ liệu dùng chung về thời tiết, sản xuất, rủi ro khiến việc định phí, thiết kế sản phẩm, thẩm định bồi thường thiếu chính xác và tốn kém.

Thứ tư, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún làm chi phí bảo hiểm cao, trong khi khả năng kiểm soát quy trình sản xuất thấp; chưa có chuỗi liên kết đồng bộ giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp, ngân hàng, bảo hiểm, các sản phẩm bảo hiểm khó có tính bền vững.

Một trong những điểm sáng được nhấn mạnh tại tọa đàm chính là mô hình liên kết tín dụng, bảo hiểm, nông dân do Ngân hàng Agribank và Bảo hiểm Agribank (ABIC) phối hợp triển khai. Đây là nỗ lực xây dựng “vòng tròn bảo vệ khép kín” cho người trồng lúa, một sáng kiến thực tiễn nhằm bảo đảm nguồn vốn tín dụng không bị đứt gãy khi rủi ro xảy ra.

img-4883-6537.jpg
Ông Trần Văn Soul, Giám đốc Agribank An Giang phát biểu tại tọa đàm.

Theo ông Trần Văn Soul, Giám đốc Agribank An Giang, Agribank hiện là ngân hàng chủ lực phục vụ “tam nông”, với hơn 70% dư nợ tại An Giang dành cho sản xuất lúa gạo. Việc gắn kết bảo hiểm với tín dụng giúp ngân hàng bảo toàn vốn vay, người nông dân an tâm sản xuất còn doanh nghiệp bảo hiểm có cơ sở dữ liệu, kênh phân phối và khách hàng ổn định.

Cụ thể, mô hình hoạt động của chuỗi được thực hiện theo hướng Agribank cấp vốn cho nông dân, hợp tác xã tham gia Đề án 1 triệu ha lúa; Bảo hiểm Agribank cung cấp gói bảo hiểm thiệt hại cây lúa và bảo an tín dụng. Khi rủi ro xảy ra, bảo hiểm chi trả bồi thường giúp người dân trả nợ, tiếp tục sản xuất, còn ngân hàng duy trì được dòng vốn luân chuyển.

Tại An Giang, Bảo hiểm Agribank đã phối hợp Tổ chức GIZ thí điểm bảo hiểm cây lúa tại 11 hợp tác xã. Khi mưa lớn gây thiệt hại ngày 21-22/8, doanh nghiệp đã kịp thời chi trả 61,8 triệu đồng cho các hộ dân Hợp tác xã Phú An Hưng, giúp họ khôi phục sản xuất ngay trong vụ mùa.

Cùng với đó, gần 350 triệu đồng bảo hiểm Bảo an tín dụng cũng được chi trả cho các hộ vay vốn gặp rủi ro về sức khỏe, một hành động mang đậm tính nhân văn, khẳng định bảo hiểm không chỉ là “tấm phiếu bồi thường” mà là cam kết đồng hành lâu dài với người nông dân.

img-4885-3646.jpg
Lễ bồi thường quyền lợi bảo hiểm thiệt hại cây lúa.

Theo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã An Phú Nguyễn Xuân Tiến, đây là nguồn động viên tinh thần to lớn giúp người dân thêm niềm tin vào chính sách. Đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường, bà Đinh Thị Hoa, Trưởng phòng Giảm nghèo và An sinh xã hội cũng đánh giá cao nỗ lực của ABIC, đồng thời đề nghị doanh nghiệp tiếp tục cải tiến sản phẩm phù hợp đặc thù sản xuất lúa vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Theo giới chuyên môn, để bảo hiểm thiệt hại cây lúa thực sự trở thành trụ cột của nền nông nghiệp bền vững, cần sự vào cuộc mạnh mẽ hơn từ thể chế và chính quyền địa phương. Trước hết, Nhà nước cần sửa đổi, hoàn thiện khung pháp lý, mở rộng danh mục bảo hiểm được hỗ trợ, giảm thủ tục, áp dụng cơ chế định phí linh hoạt theo vùng rủi ro và mô hình sản xuất.

Cùng với đó, phải xây dựng cơ sở dữ liệu số dùng chung về nông nghiệp, tích hợp dữ liệu khí tượng, thủy văn, sản xuất và rủi ro, tạo nền tảng cho các doanh nghiệp bảo hiểm thiết kế sản phẩm minh bạch, chính xác.

Đặc biệt, công tác tuyên truyền, đào tạo cần đi trước một bước. Người nông dân phải được hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ và cách thức tham gia bảo hiểm. Khi họ chủ động coi bảo hiểm như một phần tất yếu của sản xuất thay vì “giải pháp tình thế”, khi đó bảo hiểm nông nghiệp mới có thể bền vững.

Có thể khẳng định, bảo hiểm thiệt hại cây lúa không chỉ là công cụ chia sẻ rủi ro, mà còn là đòn bẩy tài chính quan trọng bảo vệ dòng vốn tín dụng, ổn định sinh kế và duy trì chuỗi sản xuất, chế biến, tiêu thụ lúa gạo của cả vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Sự liên kết chặt chẽ giữa tín dụng, bảo hiểm, nông dân và chính quyền địa phương chính là con đường duy nhất để bảo hiểm nông nghiệp không còn là “mô hình thí điểm”, mà trở thành trụ cột chính sách trong chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững, hiện đại và phát thải thấp.

Xem thêm