Tinh thần chung của tất cả là quyết tâm tập luyện, hướng đến mục tiêu giành thành tích cao nhất.
Tuy nhiên, một "điểm nghẽn" ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình chuẩn bị và thành tích thi đấu của các VĐV lâu nay vẫn chưa có lời giải, đó là sự thiếu hụt nhân lực y tế thể thao. Tại Trung tâm Đào tạo VĐV cấp cao Hà Nội, nơi tập trung gần 1.000 VĐV và HLV, đội ngũ y, bác sĩ chỉ có 13 người. Với tỷ lệ một bác sĩ phải phụ trách cho hàng chục, thậm chí hàng trăm VĐV, chất lượng chăm sóc y tế khó có thể bảo đảm yêu cầu của thể thao thành tích cao.
Sự chênh lệch này cũng xảy ra ở Trung tâm Huấn luyện Thể thao quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hay Đà Nẵng và kéo theo nhiều hệ lụy nghiêm trọng khi nguy cơ chấn thương và kiệt sức của VĐV ở giai đoạn tập luyện cao độ là rất lớn. Theo HLV Nguyễn Duy Khanh (đội tuyển Judo), việc thường xuyên tập luyện với khối lượng bài tập lớn khiến các VĐV rất dễ xảy ra chấn thương, vì thế việc có bác sĩ theo đội là rất cần thiết. Ngoài ra, thể thao Việt Nam luôn đối mặt với nỗi lo doping từ những sản phẩm hỗ trợ không rõ nguồn gốc hoặc được sử dụng sai cách do thiếu sự tư vấn, giám sát của chuyên gia y tế.
Ở các nước phát triển, y học thể thao là mắt xích không thể tách rời trong huấn luyện. Nhiều quốc gia trong khu vực đã xây dựng hệ thống y học thể thao bài bản. Thái Lan duy trì tỷ lệ 23 VĐV/1 nhân viên y tế từ SEA Games 30 cùng hệ thống giám sát chấn thương theo chuẩn IOC. Philippines sau SEA Games 32 cũng đã cam kết tăng cường nhân lực và thiết bị y tế từ Ủy ban Thể thao quốc gia. Nhưng tại Việt Nam, lĩnh vực này vẫn bị xem nhẹ và chỉ xử lý chắp vá khi có sự cố. Trước mắt, ngành thể thao chỉ có thể áp dụng giải pháp tình thế hay phối hợp với Bệnh viện Thể thao Việt Nam và các bệnh viện địa phương để chăm sóc VĐV. Và những giải pháp này không giải quyết được bài toán cốt lõi là thiếu nhân lực.