Khẳng định vai trò của các nhà khoa học xã hội và nhân văn, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cho rằng: Từ chỗ là “đất nước học” thiên về mô tả, Việt Nam học hôm nay đã trở thành một không gian học thuật liên ngành hiện đại. Ở đó, triết học, sử học, văn hóa học, xã hội học, kinh tế học, luật học, ngôn ngữ học… gặp gỡ nhau để soi rọi Việt Nam dưới nhiều góc nhìn. Các học giả Việt Nam và quốc tế đã không chỉ góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa và giá trị con người Việt Nam, mà còn bồi đắp sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc – một nền tảng quý giá cho hòa bình, hữu nghị và hợp tác phát triển.
Trong hành trình ấy, các nhà khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội, của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và cộng đồng các nhà khoa học xã hội và nhân văn luôn là một điểm tựa bền bỉ. Từ những công trình nền tảng về lịch sử-văn hóa-con người; các bộ sưu tập tư liệu, thư tịch, di sản được gìn giữ; đến những nghiên cứu đương đại về kinh tế-xã hội, dân tộc, ngôn ngữ, văn học, luật học, tôn giáo, quan hệ quốc tế…, các nhà khoa học đã cống hiến những tư liệu gốc đáng tin cậy, những diễn giải sâu sắc và bằng chứng thực tế có giá trị.
Không ít nhà khoa học đã đảm nhiệm những công trình khoa học lớn, cố vấn chính sách, kết nối các mạng lưới học thuật quốc tế – âm thầm nhưng bền bỉ đưa tiếng nói Việt Nam học vang xa. Điều đáng quý hơn cả không chỉ là số lượng công trình, mà là tinh thần nghề nghiệp và sứ mệnh xã hội: tôn trọng sự thật lịch sử, trân trọng đa dạng văn hóa, đặt con người và sự phát triển bền vững ở trung tâm, và luôn hướng về ý nghĩa phụng sự Tổ quốc, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Truyền thống ấy sẽ tiếp tục được các thế hệ kế tiếp nâng niu và làm mới bằng sự sáng tạo và hội nhập.
Dấu mốc chuyển từ kỷ nguyên thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, đổi mới, hội nhập và phát triển sang “kỷ nguyên vươn mình” không chỉ là thay đổi nhịp độ tăng trưởng mà còn là thay đổi logic phát triển. Kỷ nguyên vươn mình đặt trọng tâm vào mô hình phát triển lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; cùng với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế; lấy đổi mới, hoàn thiện thể chế phát triển, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và xây dựng hạ tầng hiện đại làm khâu đột phá; cùng với đó là bảo đảm an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe nhân dân; xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại; phát triển văn hóa, con người toàn diện; bảo đảm an ninh, quốc phòng và tăng cường hội nhập quốc tế.
Trong kỷ nguyên mới, yêu cầu hàng đầu là tối ưu hóa nội lực và bản lĩnh hội nhập để bứt phá bền vững, như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đó là kỷ nguyên đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, với Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số”. Phát triển bền vững không còn là “điều kiện kèm theo” mà trở thành kiến trúc tổng thể của chiến lược quốc gia, là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước.
Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Lợi nhấn mạnh: Việt Nam học cần trở thành nền tảng tri thức cho phát triển bền vững trong kỷ nguyên vươn mình, cần tham gia sâu hơn nữa vào quá trình đổi mới, cung cấp nguồn tài nguyên tri thức tổng hợp, đa chiều, đa góc cạnh về đất nước, con người Việt Nam, góp phần thúc đẩy việc thực hiện các bước đột phá cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đặc biệt, trong bối cảnh vừa tiến hành công cuộc “sắp xếp lại giang sơn”, sáp nhập các tỉnh, thành phố, khởi động chính quyền địa phương hai cấp, và gắn với nó là những biến đổi có tính lịch sử về địa giới hành chính, về mô hình quản trị, về vận hành bộ máy v.v… ngành Việt Nam học lại càng cần phải phát huy vai trò của mình trong việc nhanh chóng, kịp thời nắm bắt những chuyển đổi của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam, từ đó, giúp Đảng, Nhà nước ra quyết định tốt hơn, củng cố đồng thuận và bản sắc trong hội nhập.