Trải qua hàng nghìn năm, các làng nghề được hình thành dựa trên các đặc điểm địa hình, dân cư, trong đó tập trung nhiều nhất ở các khu vực chung quanh đất kinh kỳ, kẻ chợ.
Trong dòng chảy của lịch sử đã hình thành nên các vùng dân cư khu vực Đồng bằng sông Hồng. Cùng với đó, các làng nghề truyền thống được hình thành và phát triển với những sản phẩm phục vụ nhu cầu của người dân trong vùng và khu vực lân cận.
Sau khi sáp nhập tỉnh Hà Tây vào năm 2008, Hà Nội trở thành địa phương có nhiều làng nghề nhất khu vực Đồng bằng sông Hồng với 1.350 làng nghề và làng có nghề. Các làng nghề của Hà Nội đóng góp tích cực vào chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế của Thủ đô, tạo tiền đề thực hiện thành công Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) và xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố.
Tính đến nay, Hà Nội đã đánh giá, phân hạng được 3.317 sản phẩm OCOP (chiếm 21,3% của cả nước); trong đó có sáu sản phẩm 5 sao, 22 sản phẩm tiềm năng 5 sao, 1.571 sản phẩm 4 sao và 1.718 sản phẩm 3 sao, dẫn đầu cả nước về số lượng sản phẩm OCOP.
Từ ngày 1/7/2025, sau khi sáp nhập Hà Nam, Nam Định, tỉnh Ninh Bình (mới) trở thành một trong những địa phương có nhiều làng nghề nhất khu vực Đồng bằng sông Hồng với hơn 450 làng nghề. Những làng nghề không chỉ tạo việc làm cho người dân, tăng thêm thu nhập mà còn là nơi gìn giữ những nét văn hóa đặc sắc của từng vùng miền.
Dọc theo dòng sông Hồng là những làng gốm nổi tiếng như Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Ninh)… Hay ở những vùng đất bãi hình thành nên những vùng trồng dâu nuôi tằm và các làng nghề tơ lụa nổi tiếng như Hà Đông (Hà Nội), Nha Xá (Ninh Bình).
Cùng với sự phát triển chung, quy mô và trình độ sản xuất tại các làng nghề cũng có nhiều thay đổi. Riêng làng nghề Bát Tràng (Hà Nội) có hơn 700 hộ sản xuất gốm sứ và có hơn 200 doanh nghiệp gốm sứ với 27 nghệ nhân Hà Nội và hơn 100 nghệ nhân làng nghề Việt Nam.
Các sản phẩm gốm sứ Bát Tràng được chế tác bởi bàn tay tài hoa của các nghệ nhân, hội tụ tinh hoa nghề gốm qua 1.000 năm lịch sử, đa dạng về mẫu mã, kiểu dáng, thuộc ba dòng chính: Đồ gốm gia dụng, đồ gốm dùng để thờ cúng, đồ trang trí. Các sản phẩm không chỉ được bán trong nước mà còn xuất khẩu tới hơn 10 nước trên thế giới với doanh thu khoảng 2.000 tỷ đồng/năm.
Tại xã Điền Xá, địa phương có truyền thống làm nghề cây cảnh của Ninh Bình hiện có hơn 40 doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh cây cảnh, với thu nhập bình quân của người lao động đạt 72 triệu đồng/người/ năm.
Bên cạnh đó, Ninh Bình còn có các làng nghề sơn mài Cát Đằng, làng nghề chạm khắc gỗ La Xuyên, làng nghề đúc đồng Tống Xá, làng nghề nước mắm Sa Châu, làng nghề ươm tơ Cổ Chất, làng nghề nặn tò he Hà Dương… Những làng nghề không chỉ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương mà còn tạo ra những sản phẩm du lịch mang tầm quốc gia và thế giới.
Tuy nhiên, cùng với dòng chảy của sự phát triển, nhiều làng nghề truyền thống cũng dần bị mai một. Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội, từ 1.350 làng nghề và làng có nghề năm 2008, đến nay trên địa bàn thành phố chỉ còn hơn 800 làng nghề và làng có nghề.
Riêng năm 2024, Hà Nội tiếp tục đưa ra danh sách 29 làng nghề đã mai một, cần rà soát, đề xuất đưa ra khỏi "Danh sách công nhận danh hiệu làng nghề, làng nghề truyền thống". Nhiều làng nghề gần như không còn hoạt động như làng nghề làm đàn Đào Xá, xã Đông Lỗ. Hiện làng nghề truyền thống này đã giảm tới 90% số hộ làm nghề chỉ sau hơn 10 năm dù những nghệ nhân làm đàn luôn trăn trở giữ gìn, bảo tồn tổ nghiệp.
Hay nghề làm cốm ở làng Mễ Trì có từ khoảng đầu thế kỷ 20, được Ủy ban nhân dân thành phố công nhận danh hiệu Làng nghề truyền thống năm 2016, sau đó được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2019. Tuy nhiên, năm 2024, làng nghề truyền thống cốm Mễ Trì cùng với 28 làng nghề truyền thống khác được thành phố đưa vào danh mục các làng nghề mai một cần rà soát, đề xuất đưa ra khỏi “Danh sách công nhận danh hiệu làng nghề, làng nghề truyền thống”.
Nhằm bảo tồn, gìn giữ và phát triển làng nghề, phát huy những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của làng nghề nói chung và làng nghề vùng Đồng bằng sông Hồng nói riêng, Chính phủ đã phê duyệt chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam với mục tiêu bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề; thúc đẩy phát triển sản xuất; nâng cao năng lực cạnh tranh, giá trị gia tăng cho sản phẩm; tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân; bảo vệ cảnh quan, không gian và môi trường; xây dựng các khu dân cư, làng văn hóa góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội nông thôn bền vững.
Chương trình đưa ra mục tiêu, đến năm 2030, khôi phục và bảo tồn được ít nhất 129 nghề truyền thống và 208 làng nghề truyền thống có nguy cơ mai một, thất truyền; công nhận mới 213 nghề và 96 làng nghề truyền thống, phát triển khoảng 301 làng nghề gắn với du lịch; trên 80% số làng nghề, làng nghề truyền thống hoạt động có hiệu quả; 100% số người lao động trong làng nghề được đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề, 100% số cơ sở, hộ gia đình sản xuất đáp ứng các quy định về bảo vệ môi trường.
Để thực hiện được mục tiêu này, cần sự nỗ lực của các bộ, ngành từ Trung ương cho tới các địa phương trong việc xây dựng và triển khai hiệu quả quy hoạch phát triển nghề, làng nghề gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội toàn vùng và từng địa phương, quy hoạch về phát triển ngành nghề, các cụm làng nghề gắn với giải quyết tốt mối quan hệ giữa sản xuất làng nghề với các cụm dân cư, với sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.
Bên cạnh đó, cần có cơ chế bảo đảm vốn cho sản xuất làng nghề phát triển, cần giữ ổn định môi trường kinh tế xã hội,… Thực hiện đa dạng hóa các nguồn vốn, phương thức huy động vốn và phương thức cho vay để tập trung đầu tư phát triển làng nghề. Có chính sách khuyến khích và hỗ trợ làng nghề ứng dụng thiết bị, công nghệ mới tiên tiến vào sản xuất, đồng thời hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho việc phát triển làng nghề bằng việc mở rộng quy mô đào tạo và đa dạng hóa các hình thức dạy nghề.
Hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế khu vực làng nghề tìm kiếm, khai thác mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài. Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại cho các sản phẩm của làng nghề thông qua các hình thức như quảng cáo, tham gia triển lãm, hội chợ trong nước và nước ngoài.