Sở hữu trí tuệ đặc biệt quan trọng đối với đổi mới sáng tạo
Hội thảo là diễn đàn trọng điểm trong quá trình hoàn thiện chính sách về sở hữu trí tuệ, có sự tham gia của đại diện các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương; các chuyên gia, nhà khoa học, cộng đồng doanh nghiệp, ngân hàng, quỹ đầu tư, các hiệp hội.
Phát biểu khai mạc hội thảo, đồng chí Phạm Đại Dương, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương cho rằng, để đổi mới sáng tạo, vấn đề sở hữu trí tuệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Không chỉ bảo hộ kết quả sáng tạo, tạo động lực đầu tư R&D, sở hữu trí tuệ còn tạo cầu nối để chuyển giao công nghệ từ phòng thí nghiệm ra thị trường, biến tri thức thành hàng hóa thông qua việc thương mại hóa tài sản trí tuệ.
Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị và đặc biệt là Kế hoạch số 01 về hành động chiến lược triển khai Nghị quyết 57 đã nhấn mạnh vấn đề tài sản trí tuệ. Sáng kiến đột phá số 7 nêu trong Kế hoạch số 01 liên quan trực tiếp đến hệ sinh thái sở hữu trí tuệ và chuyển giao tri thức và công nghệ đã khẳng định cần tạo lập môi trường thuận lợi và cơ chế hiệu quả cho việc bảo hộ, khai thác, thương mại hóa tài sản trí tuệ và thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động chuyển giao công nghệ giữa các viện nghiên cứu, trường và doanh nghiệp.

Ngày 1/10 vừa qua, phát biểu tại Ngày hội Đổi mới sáng tạo quốc gia 2025, Tổng bí thư Tô Lâm đã khẳng định: Quốc gia nào đi trước một bước về khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo sẽ nắm lợi thế cạnh tranh chiến lược và tiến nhanh, tiến xa; ai chậm đổi mới sẽ bị bỏ lại phía sau. Không một quốc gia nào có thể “cất cánh” với nền khoa học-công nghệ thấp kém, hoạt động đổi mới sáng tạo chậm chạp.
Vì các lý do đó, hội thảo được tổ chức để bàn sâu, bàn kỹ vấn đề liên quan nhằm triển khai hiệu quả Nghị quyết 57 và góp ý xây dựng Dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, tiến tới trình thông qua tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa 15.
Phát biểu đề dẫn hội thảo, Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh cho biết, thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Thông báo số 03 ngày 6/3/2025 về việc sớm nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định trong các luật, trong đó có Luật Sở hữu trí tuệ, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 124 ngày 8/5/2025 giao Bộ Khoa học, Công nghệ chủ trì, khẩn trương rà soát các quy định về sở hữu trí tuệ, kịp thời nghiên cứu, đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung Luật Sở trí tuệ hiện hành.
Đến nay, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp các bộ, ngành, các cơ quan liên quan rà soát các quy định pháp luật hiện hành. Qua rà soát cho thấy nhiều quy định về xác lập, khai thác, đặc biệt là quy định về định giá và chuyển giao tài sản trí tuệ chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn, còn phân tán và thiếu tính đồng bộ với hệ thống luật pháp khác.

Từ những bất cập này, Ban soạn thảo đã đề xuất các chính sách sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng quyền định đoạt của chủ sở hữu tài sản trí tuệ, thiết lập cơ chế minh bạch trong hoạt động góp vốn, chuyển nhượng, định giá và thế chấp đồng thời khuyến khích hình thành và phát triển các tổ chức trung gian như các sàn giao dịch, văn phòng, chuyển giao công nghệ, tổ chức định giá tài sản trí tuệ.
Các điều khoản được đề xuất sửa đổi, bổ sung trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế và phân tích các điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Các điều khoản được thiết kế không chỉ nhằm giải quyết bất cập trước mắt mà còn hướng đến việc tạo dựng một khung pháp lý có khả năng thích ứng trong dài hạn, nhất là trong bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh chóng, tính khả thi, tính đồng bộ và tính ổn định của pháp luật cũng là các nguyên tắc được quán triệt và bảo đảm trong quá trình soạn thảo văn bản pháp luật.
Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh khẳng định hội thảo sẽ giúp quá trình soạn thảo có thêm cơ sở lý luận và thực tiễn để tiếp thu và hoàn thiện. Việc thảo luận và hoàn thiện các quy định về thương mại hóa quyền sở trí tuệ trong dự thảo sửa đổi Luật Sở trí tuệ có ý nghĩa không chỉ đối với giới nghiên cứu và doanh nghiệp mà xa hơn là với năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của quốc gia.
Cần có sự hỗ trợ của Nhà nước trong định giá tài sản trí tuệ
Tại hội thảo, dưới sự dẫn dắt thảo luận của luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm, các chủ thể chịu tác động trực tiếp của chính sách hỗ trợ và khai thác thương mại hóa các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ như nhà sáng chế, đơn vị thẩm định và định giá, tổ chức trung gian kết nối cung cầu, cơ quan quản lý và đại diện doanh nghiệp đã cùng chỉ ra những nút thắt đang khiến sáng chế dừng ở văn bằng mà không tài sản hóa được, đồng thời đề xuất hướng tháo gỡ để quyền sở hữu trí tuệ trở thành động lực tăng trưởng mới.

Nhóm các nhà sáng chế phản ánh tình trạng nhà khoa học có bằng độc quyền nhưng khó chuyển giao, thiếu nhu cầu thực chất từ doanh nghiệp trong khi chi phí duy trì hiệu lực văn bằng hằng năm rất cao. Bà Lê Thị Khánh Vân, Trung tâm Ứng dụng khoa học, công nghệ và khởi nghiệp thuộc Hội nữ trí thức Việt Nam nhấn mạnh: Cần hình thành văn hóa coi văn bằng sở hữu trí tuệ là tài sản có thể giao dịch, từ đó có thể chủ động tiếp cận các tập đoàn để giới thiệu và thử nghiệm; ưu tiên công nghệ nội sinh có hỗ trợ của Nhà nước và doanh nghiệp cần nâng chất lượng sản phẩm.
Đơn vị thẩm định và định giá nêu các điểm nghẽn như thiếu khung phương pháp chuẩn, thiếu cơ sở dữ liệu tham chiếu về giao dịch, khó tiếp cận thông tin doanh thu liên quan tài sản từ phía doanh nghiệp; cần tăng cường đào tạo đội ngũ định giá và tư vấn.
Góc nhìn tài chính và tín dụng, các chuyên gia cho rằng tổ chức tín dụng sẵn sàng cho vay nếu nhìn thấy dòng tiền từ quyền sở hữu trí tuệ và nếu pháp luật xác định rõ quyền sở hữu trí tuệ là tài sản có thể đăng ký, định giá và dùng làm bảo đảm. Khi khuôn khổ về tài sản hình thành trong tương lai và các thủ tục liên quan trở nên rõ ràng, đặc biệt với doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, việc tiếp cận tín dụng dựa trên quyền sở hữu trí tuệ sẽ khả thi hơn.
Đại diện cộng đồng doanh nghiệp, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế của VCCI nhấn mạnh, thực tế góp vốn bằng tài sản vô hình hiện có rất ít, chủ yếu xuất hiện ở khối doanh nghiệp lớn hoặc có vốn đầu tư nước ngoài. Khó khăn đầu tiên là định giá phức tạp, nhất là đối với bí mật kinh doanh và nhiều dạng tài sản vô hình khác. Để góp vốn, theo quy định, các bên có thể thỏa thuận, nhưng dễ phát sinh rủi ro nếu định giá cao, còn nếu các bên sử dụng dịch vụ định giá chuyên nghiệp thì lại có rất ít đơn vị cung cấp và chi phí cao.
Khó khăn thứ hai là thủ tục, góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ cùng lúc chịu sự điều chỉnh của nhiều luật như Luật Doanh nghiệp, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chuyển giao công nghệ và các quy định về định giá; doanh nghiệp mất nhiều thời gian, chi phí để đăng ký xác lập quyền, chuyển giao trong khi quy định thời hạn hoàn tất góp vốn chỉ 90 ngày.

Một vướng mắc nữa là vòng đời và giá trị tài sản biến động nhanh theo công nghệ và thị trường. Khi hết thời hạn bảo hộ hoặc giá trị suy giảm sau khi góp vốn, quyền lợi các bên xử lý thế nào, cơ cấu sở hữu điều chỉnh ra sao, tranh chấp với tổ chức tín dụng được giải quyết theo căn cứ nào…
Trước những bất cập đó, ông Đậu Anh Tuấn đề nghị cần có giải pháp liên thông và đơn giản hóa toàn bộ quy trình góp vốn, đăng ký và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, thuế. Ông kỳ vọng Nhà nước xây dựng thiết chế định giá có uy tín, hoạt động theo chuẩn mực quốc tế với chi phí phù hợp, đồng thời hình thành cơ sở dữ liệu công khai về công nghệ, giao dịch công nghệ.
Phát biểu kết luận hội thảo, đồng chí Phạm Đại Dương nhấn mạnh, các ý kiến của các đại biểu tại hội thảo đặt ra trách nhiệm rất lớn cho cơ quan quản lý nhà nước. Nếu cơ quan quản lý nhà nước không đánh giá, nhìn nhận một cách tổng thể và nghiêm túc các vấn đề này, sẽ đánh mất nội lực và cơ hội, bởi đó là trí tuệ của người Việt trong bối cảnh thế giới phát triển dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, và quyết tâm chính trị của Việt Nam đang ở mức rất cao.
Vì vậy, đồng chí Phạm Đại Dương đề nghị ngay sau hội thảo, Ban Chính sách, chiến lược Trung ương phối hợp Bộ Khoa học và Công nghệ cùng các cơ quan liên quan xây dựng báo cáo chuyên sâu, nêu rõ các vấn đề đánh giá kinh nghiệm quốc tế, thực trạng của Việt Nam và đề xuất giải pháp để trình cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xây dựng chính sách về sở hữu trí tuệ.