Nghiên cứu chọn tạo giống tại Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm. (Ảnh HÀ LINH)
Nghiên cứu chọn tạo giống tại Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm. (Ảnh HÀ LINH)

Đòn bẩy và điểm nghẽn của nông nghiệp hiện đại

Bài 2: Cởi trói cho công nghệ nông nghiệp

Khi công nghệ chưa thể ra khỏi phòng lab, chất xám bị lãng phí, còn nhà khoa học thì chùn bước vì thiếu cơ chế hỗ trợ và động lực. Muốn giữ chân trí tuệ cho nông nghiệp, cần một cuộc cải tổ từ thể chế đến cách ứng xử với khoa học.

Trong nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ không chỉ là công cụ giúp gia tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, mà còn là “chìa khóa” để nông dân mở cánh cửa tri thức và thị trường. Tuy nhiên, để công nghệ có thể phát huy giá trị trong thực tiễn sản xuất, rất cần một hành lang chính sách cởi mở và nhất quán, nhất là với các công nghệ mới, có tính rủi ro cao.

Công nghệ “nằm im” trong phòng thí nghiệm

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), nhiều kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực cây trồng đã thể hiện rõ xu hướng tiếp cận công nghệ cao trong nông nghiệp. Đơn cử, 6 tháng đầu năm 2023, các đơn vị thuộc Bộ đã chọn tạo và công nhận 25 giống mới thuộc các nhóm cây lương thực, thực phẩm, cây ăn quả và cây dược liệu; đồng thời xây dựng 9 quy trình kỹ thuật canh tác thâm canh tổng hợp và quản lý theo tiêu chuẩn GACP-WHO phục vụ sản xuất hàng hóa.

Mắt xích thường bị bỏ ngỏ trong chuỗi giá trị là khâu sau thu hoạch cũng đã được các nhà khoa học quan tâm, với việc hoàn thiện quy trình công nghệ cho một số loại trái cây chủ lực như chuối, sầu riêng và bơ. Quy trình này không chỉ kéo dài thời vụ thu hoạch tối thiểu 15 ngày mà còn nâng tỷ lệ chín đồng đều trên 95%, kéo dài thời gian bảo quản tới 25 ngày, đáp ứng yêu cầu vận chuyển và xuất khẩu ngày càng khắt khe của thị trường quốc tế…

Tuy nhiên, không ít công nghệ vẫn đang “kẹt” trong phòng thí nghiệm do thiếu chính sách thúc đẩy phù hợp, điển hình như công nghệ chọn tạo giống rau lai F1. Việt Nam gần như chưa làm chủ được giống rau lai F1 - yếu tố được ví như “nền móng” của nền nông nghiệp công nghệ cao vì quyết định năng suất, chất lượng và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Hiện, Việt Nam phải nhập khẩu 80-90% hạt giống các loại rau như bắp cải, su hào, cà rốt, hành tây, dưa chuột, dưa lê... Ước tính mỗi năm, Việt Nam phải chi hơn 200 triệu USD để mua hạt giống.

Một trong những nguyên nhân khiến các viện nghiên cứu chưa dám nghiên cứu vì đầu tư lớn, rủi ro cao, nhưng thiếu cơ chế khuyến khích và bảo hiểm rủi ro cho các nhà khoa học. Hơn 10 năm qua, duy nhất có Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm đã hợp tác với Viện nghiên cứu rau của Nhật Bản, cử cán bộ đi đào tạo và đã nắm trong tay công nghệ phục vụ lai tạo giống rau F1. Nhóm nghiên cứu của Viện đã lai tạo thành công giống cải bắp F1 nhưng chỉ dừng ở quy mô thử nghiệm do thiếu kinh phí và chưa có cơ chế hỗ trợ dài hạn.

Một trong những nguyên nhân khiến các viện nghiên cứu chưa dám nghiên cứu vì đầu tư lớn, rủi ro cao, nhưng thiếu cơ chế khuyến khích và bảo hiểm rủi ro cho các nhà khoa học.

Một nhóm nghiên cứu khác của Viện cũng hợp tác với Vương quốc Bỉ - quốc gia hàng đầu thế giới về giống và công nghệ canh tác khoai tây - hoàn thiện quy trình sản xuất khoai tây tổng hợp theo hướng số hóa. Hệ thống này tích hợp dữ liệu và mô hình số nhằm kiểm soát toàn bộ đầu vào như giống, phân bón, lịch gieo trồng, làm đất, tưới tiêu..., giúp người nông dân ra quyết định chính xác trong từng giai đoạn. Nếu được ứng dụng rộng rãi, công nghệ có thể giúp tăng gấp đôi năng suất khoai tây lên hơn 30 tấn/ha, đáp ứng chế biến sâu và xuất khẩu. Quy trình này cũng chưa chuyển giao được cho nông dân do thiếu chính sách, kinh phí.

Chỉnh sửa gen được coi là công nghệ của thời đại, là chỉ tiêu quan trọng trong đánh giá trình độ khoa học, công nghệ quốc gia trong lĩnh vực công nghệ sinh học, đồng thời mở ra bước ngoặt cho ngành nông nghiệp với những giống cây trồng chống chịu tốt, thích nghi biến đổi khí hậu, rút ngắn thời gian sinh trưởng, tăng năng suất và giảm chi phí.

Từ năm 2017 đến nay, các cơ sở nghiên cứu trong nước đã thực hiện một số đề tài chỉnh sửa gen ở cây lúa, ngô, đậu tương... Nhiều đề tài chỉnh sửa gen đã cho ra giống cây trồng sẵn sàng đưa vào sản xuất, nhiều doanh nghiệp đề nghị chuyển giao, nhưng đến nay vẫn chưa thể triển khai do Việt Nam chưa có hành lang pháp lý rõ ràng về sinh vật chỉnh sửa gen. Tiến sĩ Đỗ Tiến Phát, Viện Sinh học (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) cho biết, các dòng cây trồng chỉnh sửa gen như đậu tương tăng hàm lượng axit oleic, cà chua giàu dinh dưỡng, thuốc lá kháng virus... đã được Viện Sinh học nghiên cứu thành công và sẵn sàng chuyển giao cho doanh nghiệp, người dân.

Ngày 12/6 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược, trong đó chỉnh sửa gen được coi là một hướng ứng dụng chiến lược trong lĩnh vực y tế và nông nghiệp. Điều đó cho thấy hành lang pháp lý đang từng bước hình thành, nhưng chính sách cần sớm cụ thể hóa, bao gồm cả việc thiết kế cơ chế thử nghiệm linh hoạt (sandbox) dành riêng cho công nghệ chỉnh sửa gen.

Từ chính sách đến con người

Nhiều chuyên gia cho rằng cần tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế, tài chính và cơ chế quản lý nghiên cứu. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sơn, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho rằng, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp còn manh mún, thiếu vườn ươm khởi nghiệp nông nghiệp công nghệ cao quy mô vùng để thử nghiệm mô hình mới trước khi nhân rộng. Công nghệ nội địa còn yếu, chủ yếu phụ thuộc thiết bị, giống, phần mềm từ nước ngoài. Còn thiếu liên kết chặt chẽ giữa viện nghiên cứu-doanh nghiệp-nông dân để chuyển giao tri thức và công nghệ một cách hiệu quả, bền vững.

Theo Tiến sĩ Đỗ Tiến Phát, nếu Nhà nước vẫn tiếp tục rót vốn, nhà khoa học vẫn miệt mài nghiên cứu, nhưng sản phẩm làm ra không có cơ hội ứng dụng vào thực tiễn thì không chỉ gây lãng phí ngân sách mà còn lãng phí chất xám.

Do đó, điều đầu tiên là phải thay đổi cách tiếp cận chính sách, chuyển từ “khuyến khích” sang “kiến tạo” với cơ chế “mở đường”, chia sẻ rủi ro và thúc đẩy hợp tác nhiều bên... Khi Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi, người dân, doanh nghiệp và nhà khoa học sẽ cùng nhau tạo nên hệ sinh thái nông nghiệp đổi mới sáng tạo.

Tiến sĩ Nguyễn Trọng Khanh, Viện trưởng Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm kỳ vọng Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia sẽ là bước đột phá để công nghệ nhanh chóng được đưa vào ứng dụng trong sản xuất, với cơ chế chấp nhận rủi ro và thay đổi tư duy từ tiền kiểm sang hậu kiểm trong quản lý kết quả nghiên cứu.

Ông dẫn chứng bất cập từ Nghị định 70/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 về “Quy hoạch việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng vốn nhà nước”, theo đó, muốn chuyển giao một giống cây trồng mới, nhà khoa học phải lập đề án định giá, báo cáo các bộ, ngành và cam kết sản phẩm sau vài năm phải đạt quy mô cụ thể trên đồng ruộng. Trong khi đó, thành công không chỉ phụ thuộc nhà khoa học, mà còn vào doanh nghiệp, thị trường, đầu tư… Do đó, nhà khoa học không mạo hiểm với việc chuyển giao kết quả nghiên cứu.

Với Nghị quyết 57-NQ/TW, nhiều nhà khoa học tin tưởng, sản phẩm khoa học có giá trị sẽ được doanh nghiệp và thị trường chủ động tiếp nhận; Nhà nước chỉ nên hậu kiểm sau 3-5 năm để đánh giá kết quả nhằm thúc đẩy nhà khoa học yên tâm chuyển giao kết quả nghiên cứu.

Nghị quyết 57-NQ/TW với chủ trương đẩy nhanh ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất không chỉ giúp phát huy giá trị của khoa học, công nghệ mà còn là giải pháp cấp thiết để giữ chân đội ngũ nhà khoa học cho ngành nông nghiệp vốn đang đối mặt với tình trạng “chảy máu chất xám” do chính sách tinh giản biên chế và chế độ đãi ngộ chưa đủ hấp dẫn thời gian qua.

Theo Tiến sĩ Đỗ Tiến Phát, nếu Nhà nước vẫn tiếp tục rót vốn, nhà khoa học vẫn miệt mài nghiên cứu, nhưng sản phẩm làm ra không có cơ hội ứng dụng vào thực tiễn thì không chỉ gây lãng phí ngân sách mà còn lãng phí chất xám. Công sức của nhà khoa học không được xã hội ghi nhận, cũng không tạo ra động lực để họ tiếp tục cống hiến. Thực trạng này nếu không được tháo gỡ bằng những đột phá chính sách sẽ tiếp tục bào mòn nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học-công nghệ, nhất là nông nghiệp công nghệ cao.

Xem thêm